Đóng

Thầy Hồ Ngọc Đại: "Tôi không bao giờ nói dối"

(DS&PL) -

Là nhân vật gây tranh cãi bậc nhất trong ngành giáo dục, xung quanh thầy Đại luôn là hai thái cực rõ rệt, hoặc rất yêu mến, hoặc rất phản đối. Nhưng dường như chuyện đó chẳng khiến thầy mấy bận lòng. Thầy Đại bảo: Miễn là thấy đúng, tôi cứ thế làm.

 

Chúng tôi đến thăm thầy Đại trong một chiều Hà Nội trở gió đón cái lạnh đầu mùa.

Khác với mọi khi thầy vẫn tự mình ra mở cổng, lần này, người đón chúng tôi là một phụ nữ tóc bạc. Như đoán được ánh nhìn ngạc nhiên, người phụ nữ mỉm cười giải thích ngay: Cô nguyên là giáo viên của Trường Thực nghiệm, cùng các đồng nghiệp cũ đến thăm thầy Đại.

Lên phòng khách, trước mắt chúng tôi là cảnh mười cô giáo tươi cười đứng vây quanh thầy, nhắn nhủ, chào tạm biệt. Trong không gian ấy, có một cảm giác thân tình đến lạ. Đã nghỉ hưu nhiều năm, các cô tìm đến thầy lúc này, hẳn không vì bất kỳ ràng buộc hay bổn phận nào, ngoài tình cảm chân thành dành cho người “sếp” cũ. Tôi chợt nghĩ, suốt những năm tháng công tác, thầy Đại đã sống và đối đãi với mọi người ra sao, để đến tận bây giờ, khi danh lợi, chức tước đã trở thành chuyện phù vân, quanh thầy vẫn còn biết bao sự quý mến như vậy.

Tiễn khách xong, căn phòng lớn của nhà số 6 Hoàng Diệu lại trở về sự yên tĩnh thường ngày. Thắp một nén hương cho tiền nhân, chúng tôi ngồi xuống, bắt đầu câu chuyện cùng thầy. Ở tuổi 90, bước đi của thầy có phần chậm rãi hơn, nhưng ánh mắt vẫn như có lửa và thầy vẫn tỉnh táo lạ thường.

 

 

Đời sống & Pháp luật (ĐS&PL): Thưa thầy, em thấy các cô giáo vừa rồi tỏ ra rất quý mến thầy? Điều gì đã làm nên sự quý mến đó, dù bây giờ thầy không còn là “sếp” của họ?

Thầy Hồ Ngọc Đại (Thầy Đại): Các cô ấy là thế hệ đầu tiên của Trường Thực nghiệm đấy. Họ đã dám đi cùng tôi trong những ngày đầu tạo lập, thời ấy nhiều khó khăn lắm. Tôi biết ơn họ vì điều đấy.

Còn việc họ quý mến tôi có lẽ là bởi tôi cũng quý mến họ. Tôi hiểu mình có việc của mình, người ta có việc của người ta. Tôi không làm sang việc của họ và họ không làm sang việc của tôi. Đó là sự phân công trong xã hội hiện đại. Thế nên chúng tôi hợp tác với nhau, tôn trọng nhau để cùng làm việc.

ĐS&PL: Những giáo viên thế hệ đầu đã đến với Trường Thực nghiệm như thế nào, thưa Thầy?

Thầy Đại: Tôi đi học ở Liên Xô hơn 8 năm thì về nước, rồi xin mở Trường Thực nghiệm, khai giảng khóa đầu tiên vào năm 1978. Hồi ấy, tôi đến Trường Chu Văn An, nói chuyện với các thầy cô về mô hình giáo dục mới mà tôi muốn xây dựng. Tôi nói rất thẳng: “Tôi sắp mở một trường, ai tin thì theo tôi, không ai ép ai cả.”

Bất ngờ là có khá nhiều người đăng ký. Tôi chọn trong số đó những người thực sự tự nguyện, có tinh thần đổi mới và dám thử cái mới. Thế là chúng tôi bắt đầu.

 

ĐS&PL: Thứ khác biệt lớn nhất mà thầy tìm kiếm ở đội ngũ nhà giáo Trường Thực nghiệm là gì?

Thầy Đại: Tôi không mong họ giảng bài cho học sinh. Ở Trường Thực nghiệm, thầy là người giao việc, học trò là người làm việc, kết quả làm việc thế nào nói lại với thầy. Quá trình đó là tri thức thực tế.

Trong công nghệ giáo dục của tôi, nguyên tắc cơ bản của nghiệp vụ sư phạm là không đưa đến cho trẻ em sản phẩm làm sẵn, buộc phải chấp nhận như kiểu học thuộc lòng. Thầy cô chỉ là người hướng dẫn, định hướng, còn trẻ em tự mình làm ra sản phẩm giáo dục cho chính mình, vì chính mình, để trở thành chính mình.

Anh thử nghĩ xem, một món đồ chơi do trẻ tự làm ra bao giờ cũng khiến chúng cảm thấy quý hơn bất kỳ món đồ nào bố mẹ mua cho, dù có không đẹp bằng. Tri thức cũng vậy.

Nhưng tôi biết những điều đó vẫn là “khó nghe” với phần đông xã hội.

ĐS&PL: Vâng, phần lớn người ta vẫn không tin rằng trẻ em có thể tự mình làm ra sản phẩm giáo dục cho chính mình - “Trẻ con thì biết gì”.

Thầy Đại: Đấy là sự hiểu lầm lớn nhất của người lớn. Thực tế thì trẻ con tự sinh ra chính mình và tự trở thành chính mình, bằng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

 

Tự nhiên hay lắm, đứa trẻ đã tự trở thành chính mình ngay từ trong bụng mẹ, thế rồi khi sinh ra là biết bú ngay, rồi biết lẫy, biết bò, biết đi, biết chạy, tất cả cái đó đều tự nhiên và do đứa trẻ tự làm lấy hết. Đó là sự thật mà không ai dám thừa nhận.

Tôi tin vào khả năng của trẻ con và nguyên tắc của tôi là để trẻ con tự làm lấy, người lớn chỉ cần hướng dẫn, định hướng, kiểm tra và giúp đỡ quá trình ấy. Người ta không hiểu nên cho rằng tôi mạo hiểm, nhưng tôi hiểu rõ những điều mình làm, tôi thấy đó là bình thường.

Trên thế giới này, không có hai đứa trẻ nào là giống nhau, ngay cả sinh đôi. Mỗi người là một bản thể, nhất là người hiện đại.Vì vậy, mỗi người phải trở thành chính mình.

Trong một lớp có 40 học sinh là 40 phiên bản khác nhau, phải tôn trọng đứa nào như đứa nào. Một đứa trẻ bị người lớn khẳng định là kém thì nó khổ biết bao nhiêu. Và ngay cả khi đứa trẻ tự nhận mình là kém nhưng người lớn khẳng định là “không, em vẫn như người khác” thì cuộc sống của nó sẽ khác đi. Quan trọng nhất tạo cho đứa trẻ sự tự tin, tự tôn trọng và để người lớn phải tôn trọng nó.

Đấy là tinh thần căn bản nhất của giáo dục, công nghệ giáo dục chỉ là thực thi điều đó. Mà cái đấy không phải là do tôi nghĩ ra, nó có sẵn trong thực tiễn, là sản phẩm của lịch sử, chỉ là tôi thấy và tôi nói ra, nói một cách rành mạch.

 

ĐS&PL: Quan điểm của thầy có thể lạ, nhưng cũng có thể không lạ, nhất là khi nói về việc thúc đẩy năng lực tự học, tự vận động cho trẻ trong những năm gần đây?

Thầy Đại: Thế nên trong xã hội của tôi, tôi nêu khẩu hiệu hợp tác. Tức là tôi mạnh gì thì mạnh, vẫn có chỗ yếu, tôi làm gì thì làm cũng có chỗ tôi không làm được. Những chỗ tôi không làm được thì có người khác giúp cho tôi. Đó là sự sắp xếp của sự sống nói chung. Và hợp tác cũng chính là tinh thần cốt lõi trong công nghệ giáo dục của tôi.

ĐS&PL: Bây giờ thì công nghệ giáo dục của thầy mà hiện thân là mô hình Trường Thực nghiệm đã chứng minh được giá trị và sức sống của nó. Thậm chí, đã có thời Trường Thực nghiệm “hot” đến độ, phụ huynh từng xô đổ cả cổng trường để giành nhau nộp hồ sơ nhập học?

Thầy Đại: Đó là những năm sau khi Ngô Bảo Châu (học sinh khóa đầu tiên của Trường Thực nghiệm) đạt Huy chương Fields. Khi ấy, người ta đổ xô đăng ký cho con vào học ở Trường Thực nghiệm. Còn về cái cổng, thật ra, nó vốn đã yếu sẵn rồi, nên chuyện “xô đổ” cũng có phần… phóng đại, nói vậy cũng hơi oan cho phụ huynh (cười).

Bây giờ thì học sinh đăng ký vào trường vẫn đông, nhưng trật tự hơn nhiều.

 

ĐS&PL: Điều đó có lẽ cho thấy, mô hình của Trường thực nghiệm đã thuyết phục được rất nhiều phụ huynh?

Thầy Đại: Đúng, nhưng tôi nghĩ sức thuyết phục không hẳn đến từ học sinh của trường được giải này, giải kia mà vì trẻ con cảm thấy vui thật khi đi học.

Hồi còn làm việc, buổi sáng sớm, thường thường tôi xuống cổng trường để hỏi phụ huynh một câu thôi: “Trẻ đi học thấy thế nào?” Khi biết học sinh của mình vui, thích đi học, tôi cũng vui, chưa cần biết đến thành công gì cả.

Năm 1978, khi mở Trường Thực nghiệm, trong lễ khai giảng đầu tiên, tôi chỉ treo dọc mỗi 2 câu khẩu hiệu: “Đi học là hạnh phúc” và “Mỗi ngày đến trường náo nức một ngày vui”. Với tôi, trẻ con đến trường không có gì hơn hai cái này.

 

 

ĐS&PL: Thưa Thầy, cũng với công nghệ giáo dục, thầy có thể làm nhiều thứ, sao thầy lại quyết trở thành một thầy giáo?

Thầy Đại: Khi tôi đi du học về nước, tôi là tiến sĩ khoa học đầu tiên của Việt Nam về ngành Tâm lý học. Có người bảo tôi đi dạy lớp 1 là phí, tôi không cho là vậy.

Tôi hiểu về công nghệ giáo dục và chỉ tôi mới làm được việc này. Mỗi năm có gần 2 triệu trẻ con vào lớp 1, tức là có gần 4 triệu cha mẹ học sinh. Nếu giáo dục để trẻ thấy vui khi đi học, tức là một năm có gần 6 triệu người hạnh phúc. Gần 6 triệu người đau khổ, vui buồn đều trong tay anh, anh phải nhận trách nhiệm ấy chứ. Tôi muốn là toàn dân phải được hưởng cái hạnh phúc của việc đi học.

Hơn nữa, trong khi đất nước chiến tranh, tôi đã được đi học. Tôi đã được hơn mọi người ở nhiều thứ. Do đó, khi về nước tôi có 2 ước vọng: Một là tôi dạy cho trẻ con mới lớn lên, và hai là dạy cho chiến sĩ ở mặt trận trở về.

ĐS&PL: Thưa Thầy, em vẫn nghĩ, giá như Thầy lựa chọn làm chính trị, trở thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục chẳng hạn, thì Thầy có thể làm được nhiều điều hơn, ít nhất là áp dụng mô hình thực nghiệm của mình rộng rãi hơn?

 

Thầy Đại: Ảo tưởng, cái đó là ảo tưởng. Tôi trực tiếp làm còn chưa được, còn khó khăn nữa là chỉ đạo qua người khác. Qua người khác là qua lăng kính của họ, trong đó có lăng kính lợi ích, cách nhìn họ sẽ khác.

Khi tôi mới đi học ở Liên Xô về, nhiều người vận động tôi làm chính trị, giữ chức này, chức kia, nhưng tôi từ chối cả. Cho đến bây giờ, tôi thấy quyết định của mình là quá đúng. Bởi vì các vị ấy cứ tưởng lãnh đạo mới là quan trọng, nhưng thực tế thì thi hành còn quan trọng hơn. Khi lãnh đạo có người thi hành tốt thì mới lãnh đạo tốt, còn người thi hành không tốt thì lãnh đạo có giỏi mấy cũng không làm nên trò trống gì.

Khi tôi về nước, công nghệ giáo dục còn chưa từng xuất hiện ở Việt Nam, chỉ có tôi mới hiểu nó và cũng chỉ có tôi mới làm tốt được. Thực sự nếu như tôi có trở thành ông Bộ trưởng thì rốt cuộc công nghệ giáo dục sẽ không bao giờ thành hình cả, hoặc trở thành một cái gì đó rất khác so với mong muốn của tôi. Người ta sẽ không làm theo ý của tôi. Và vì thế, tôi phải làm thật. Tôi tự làm để chứng minh bằng một mô hình có thật.

Tôi không muốn thuyết phục xã hội về triết lý giáo dục của mình bằng những ngôn từ xáo rỗng, mà phải bằng một ngôi trường và hạnh phúc có thật của học sinh.

Lịch sử rất công bằng, cuộc sống cũng rất công bằng, mỗi người sinh ra đều có việc riêng của mình và sứ mệnh của anh là làm tròn việc đó. Bởi thế, việc của người ta tôi không bao giờ can thiệp, nhưng những việc gì liên quan đến trẻ con là tôi can thiệp (cười lớn).

 

ĐS&PL: Thầy không nuối tiếc gì về quyết định của mình?

Thầy Đại: Tôi cả đời làm giáo dục, tôi ý thức được rằng mình phải làm việc gì có ích thật cho xã hội. Thực ra mà nói, chức vụ hay quyền lực quan trọng đấy nhưng rồi cũng thế thôi. Anh có làm Bộ trưởng thì cũng 5 năm, 10 năm thôi chứ, nhưng tri thức mà anh đóng góp cho xã hội thì còn mãi.

Mà làm Bộ trưởng, không hàng trăm thì hàng chục người giỏi hơn tôi, nhưng công việc của tôi, không mấy ai giỏi hơn tôi. Tôi biết sức tôi chỉ có thể đến thế. Tôi muốn làm thật, có những học sinh thật, những cha mẹ thật.

Mục đích tôi có 2 bước. Trước hết là tôi phải làm được. Và sau đó là có thể chuyển giao cho người khác để họ cũng có thể làm được như tôi, hoặc tốt hơn tôi.

Sau gần 50 năm Trường Thực nghiệm ra đời, mọi việc đã đúng với ý định, ước vọng ban đầu của tôi. Đã có thật những lớp học như thế, có thật những trẻ em như thế, có thật những cô giáo như thế. Mô hình giáo dục của tôi đã trở thành hiện thực. Thế là tốt rồi, một đời người mà làm được như vậy thì không còn gì phải nuối tiếc nữa.

 

 

ĐS&PL: Em thấy thầy như là một người giác ngộ. Bởi lẽ, thầy nhận ra con đường mình đi rất sớm và kiên định đi trên con đường đấy suốt bao nhiêu năm qua, bất chấp rất nhiều cơ hội về quyền lực, tiền bạc hay một thứ gì đó mà ngoài kia, người ta vẫn đang miệt mài theo đuổi. Thầy lựa chọn đi trên con đường của riêng mình.

Thầy Đại: Tôi biết rằng trí thức đích thực của đất nước là phải có ích cho đất nước. Có ích ngay bây giờ và sau này, chứ không thể viển vông được.

Nhiều khi giới trí thức chúng ta cứ thuộc lòng những điều người khác nói, nhắc đi nhắc lại như một thói quen, mà ít khi tự mình suy nghĩ thật sự. Bởi vậy, có lúc người ta ấn tượng với giới trí thức là chỉ giỏi nói, nhiều ý kiến hay nhưng không làm được. Tôi nghĩ người trí thức thực sự phải chứng minh mình bằng những sản phẩm thật, có ích cho đất nước.

ĐS&PL: Thưa thầy, nhắc đến điều này, em chợt nhớ tới câu nói của danh sĩ Thân Nhân Trung cách đây hơn 500 năm: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Trong xã hội hiện đại của thế kỷ XXI, theo thầy, “hiền tài” là ai và là những người như thế nào?

 

Thầy Đại: Tôi nghĩ rất đơn giản, hiền tài là những người làm được việc và làm tốt việc mình làm, thế thôi.

Cuộc sống này tồn tại bằng những việc làm và sản phẩm của việc làm. Không có trời đất nào để chúng ta trông cậy mà phải cần những người thực làm.

Trước đây, trong thời phong kiến, tài đôi khi chỉ là giỏi ăn nói, biết tầm chương trích cú, lập luận sao cho thuyết phục.

Nhưng thời đại bây giờ rất hiện thực, tài phải được chứng minh bằng việc làm ra những sản phẩm có thật và có ích hơn những gì đang hiện hữu. Người làm ra được sản phẩm thật như thế mới là người tài. Anh tài hơn người khác ở chỗ ấy, chứ không phải chỉ nói hay.

ĐS&PL: Thưa thầy, nếu “hiền tài” là những người thực làm, vậy làm thế nào để nuôi dưỡng và giữ được “nguyên khí” ấy cho đất nước?

Thầy Đại: Nguyên khí quốc gia không phải tự nhiên mà có, đó là kết quả của cả một quá trình phát triển trong đời sống xã hội. Nhân tài do chính cuộc sống sinh ra. Khi cuộc sống có nhu cầu, người đó sẽ xuất hiện như một quy luật tất yếu. Chả thế mà người ta bảo thời thế tạo anh hùng.

 

Nhưng rồi anh hùng cũng tạo thời thế, muốn vậy người ta không thể đứng ngoài cuộc sống thực. Chính đời sống thực tế mới là thước đo giá trị của con người, chứ không phải những lời khen chê hão huyền ảo ảnh. Cuộc sống có thể khen, có thể chê, nhưng quan trọng là phải sống thật, làm thật.

ĐS&PL: Vậy giáo dục sẽ làm gì để có những người tài như chúng ta vừa nói ạ?

Thầy Đại: Không gì ngoài một nền giáo dục thật, làm những việc thật cho những con người thật trong những thời gian thật. Cho nên tôi rất biết cái gì mình làm được thì mình phải tự làm.

 

ĐS&PL: Có nhiều người rất yêu quý thầy, nhưng cũng không ít người thấy thầy “khó gần”, có lẽ vì thầy thẳng thắn quá? Dường như sự thẳng thắn ấy cũng khiến thầy khác biệt giữa đám đông?

Thầy Đại: Có người bảo tôi kiêu ngạo, nhưng quả thực không phải vậy, chỉ là tôi hiểu rõ những gì mình làm. Mặc cho họ nói gì, miễn là thấy đúng, tôi cứ thế mà làm.

Tôi có một ‘khuyết điểm’ là nói thật. Tôi không bao giờ nói dối. Có thể tôi không nói hoặc tảng lờ đi, nhưng đã nói là nói thật. Với tôi, sự thật luôn là điều quan trọng nhất.

 

ĐS&PL: Thưa Thầy, không dễ để làm điều đó, nhất là khi “nói thật” đôi lúc khiến người ta phải trả giá.

Thầy Đại: Đúng rồi, trong sâu xa, tôi rất ý thức về lịch sử. Lịch sử tưởng như im lặng, nhưng thật ra lịch sử biết nói đấy. Ai sống ra sao lịch sử đều biết hết và lịch sử sẽ nói hết.

Tôi hình dung lịch sử như người theo sát mình, theo dõi từng hành động, từng suy nghĩ, từng cử chỉ của mình. Và vì thế, anh phải làm thế nào để sống xứng đáng với lịch sử, chứ không phải xứng đáng với người đời.

Đừng nghĩ rằng anh làm gì mà không ai biết, đời biết cả đấy. Và ai nói dối cuộc đời thì sớm muộn gì cuộc đời cũng “trả thù” lại thôi.

 

ĐS&PL: Một người như thầy Đại, liệu có nỗi sợ gì không?

Thầy Đại: Thật ra mà nói, tôi chẳng thấy có gì đáng phải sợ cả. Tôi bình thản trước mọi đe dọa.

ĐS&PL: Đã có ai đe dọa thầy chưa?

Thầy Đại: Cũng có, họ không nói thẳng, nhưng nói gần, nói xa. Đó là khi những việc tôi làm va chạm vào lợi ích của họ. Họ có quyền chống lại tôi khi lợi ích của họ bị xâm phạm, nhưng vấn đề là sự xâm phạm đó có chính đáng hay không?

Trong nhiều trường hợp, tôi hiểu người ta tấn công tôi vì lợi ích bị xâm phạm chứ không hẳn họ nghĩ tôi sai.

ĐS&PL: Thưa Thầy, đức tin của thầy Đại là gì?

Thầy Đại: Tôi tin vào sự thật, tin vào chân lý. Sự thật chưa hẳn đã là chân lý nhưng sự thật là cái dễ nắm bắt nhất.

 

Hồi bé, nhà tôi giàu lắm, có đến hàng chục người làm công. Sáng nào mẹ tôi cũng phát tiền công, hồi ấy còn dùng tiền xu. Một hôm, dây xâu tiền bị đứt, tiền rơi tung tóe. Mẹ gọi tôi lại, bảo nhặt hết lên. Tôi nhặt xong, mẹ hỏi:

– Con nhặt hết chưa?

Tôi đáp:

– Con nhặt hết rồi.

Nhưng khi vừa quay đi, lại nghe tiếng leng keng trong túi áo. Tôi đã lấy cắp 2 đồng.

Mẹ gọi tôi lại, rồi răn:

– Tiền này là của người làm công. Con là ông chủ, phải có tư cách của một ông chủ! Nếu con cần tiền, cứ nói với mẹ, không việc gì phải lấy một cách gian dối như thế, không xứng đáng với tư cách của mình.

Tôi nhớ mãi câu chuyện này và sau lần ấy, đến tận bây giờ không bao giờ tôi gian dối nữa. Tôi hiểu ra, nói dối là hèn hạ và người có tư cách thì không lấy cái không phải của mình.

ĐS&PL: Gia đình có vẻ ảnh hưởng nhiều đến tính cách của Thầy?

Thầy Đại: Gia đình tôi là một nhà địa chủ giàu có ở Quảng Trị. Bố tôi là một nhà nho điển hình, bạn bè của ông toàn quan lại của triều đình nhà Nguyễn. Thế mà ông lại theo cụ Phan Bội Châu chống Pháp, rồi sau đó đi theo cách mạng. Ông từng ngồi tù của thực dân và ông luôn nói với chúng tôi: “Không có gì dạy con người bằng nhà tù cả”.

 

Là những người cộng sản đời đầu nên ông có phần gàn và rất thẳng thắn, ông chẳng để ý gì đến chuyện làm ăn, chỉ suốt ngày đọc sách. Là chủ trong gia đình, nhưng khi nào ra ngoài, ông cũng đều “ngửa tay” xin tiền vợ. Có lẽ tôi thừa hưởng gen này từ ông cụ (cười).

Mẹ tôi thì lại khác. Là con quan, bà tinh tế và ý nhị vô cùng, một tay bà thu vén chuyện nhà. Bà kém bố tôi đến gần 30 tuổi. Chuyện là sau khi ra tù, ông nghe hai người em kể về mẹ tôi, 1 tuần sau ông đến nhà, nói thẳng muốn hỏi cưới mẹ tôi. Bà khóc, nhưng thế nào mà bà lại đồng ý.

 

ĐS&PL: Thưa thầy, có điều này thật tế nhị, nhưng một trí thức lớn như thầy, nhiều người nghĩ chắc thầy phải giàu lắm?

Thầy Đại: May ra thì tôi được gọi trung bình (cười lớn).

ĐS&PL: Nhưng Thầy là người sáng lập Trường Thực nghiệm, làm chủ Công nghệ giáo dục và một thời, sách của thầy được người ta in ra để dạy cho gần triệu học sinh?

Thầy Đại: Toàn bộ sách giáo khoa tôi không nhận một xu nào. Tôi có nhận nhuận bút những sách khác do tôi viết, còn với sách giáo khoa, tôi không nhận một xu nào hết, tôi cho không, dù về mặt bản quyền, sách vẫn đứng tên tôi. Cho không là bởi tôi nghĩ: Sách giảm giá được bao nhiêu thì trẻ con càng được hưởng bấy nhiêu.

Mà suy cho cùng, sách giáo khoa là nghĩa vụ của tôi, trách nhiệm của tôi, bổn phận của tôi. Thế thì sao lại lấy tiền.

 

ĐS&PL: Một người như thầy Đại sẽ quản lý tiền bạc như thế nào nhỉ?

Thầy Đại: Hồi còn công tác, tôi là thủ trưởng, hưởng lương cao nhất cơ quan. Nhưng khi nhận một khoản tiền gì đó, tôi đều kí nhận hoặc họ kí nhận cho tôi. Số tiền có thể không đáng gì, nhưng để cả tôi và người đưa yên tâm. Trên hết là sự minh bạch.

Bởi thế, có người khi về hưu rất phiền phức chuyện tiền bạc, còn tôi thì yên lành. Và bạn thấy đấy, người ta vẫn trân trọng và thương mến tôi vì sự minh bạch ấy.

ĐS&PL: Đó là việc ở cơ quan, còn ở nhà, Thầy có để vợ giữ tiền như bao người đàn ông khác không?

Thầy Đại: Không, cô không bao giờ giữ. Có hôm tôi đưa tiền cho cô, cô chỉ nói: “Mọi khi anh đi uống bia, người ta đã trả tiền cho anh rồi. Phải có lúc anh trả tiền cho người ta chứ” (cười). Thế là tôi cầm tiền của mình, thi thoảng mua cái này cái kia, gọi là cho phải phép.

Vợ tôi có thể chê tôi nhiều chuyện nhưng bà ấy khen tôi thật, cái gì làm sai là tôi nhận ngay.

ĐS&PL: Có vẻ thầy sống rất đơn giản. Em nghe nói thầy có đến chục chiếc áo sơ mi giống nhau để khỏi phải suy nghĩ xem mặc gì?

Thầy Đại: Chính xác là 12 cái (cười). Nên tôi không bao giờ phải đắn đo mặc gì mỗi sáng, miễn là sạch. Thế nên có người còn tưởng tôi chỉ có mỗi một bộ quần áo.

 

Tôi không có nhu cầu gì nhiều. Đơn giản, thế là đủ. Tôi không cần thêm gì để làm phức tạp cuộc sống của mình cả.

ĐS&PL: Đơn giản là vậy, liệu thầy có nguyên tắc gì trong cuộc sống không?

Thầy Đại: Tôi nghĩ, đã sống thì phải thật. Sống giữa đời, mình không che giấu được mãi. Mà giả như có che giấu được thì cũng đâu còn là mình. Và vì thế, tôi nói là nói thật, khen là khen thật, chê là chê thật.

Cho nên, tôi cũng không bao giờ vin vào danh hiệu giáo sư, tiến sĩ gì cả, chỉ cần Hồ Ngọc Đại trần trụi như cha mẹ sinh ra là được. Tôi chịu trách nhiệm thật với chính mình, chứ không vì gì cả.

ĐS&PL: Thưa Thầy, hẳn là các danh hiệu đều rất cao quý và nhiều người đã dành cả đời để phấn đấu cho những danh hiệu ấy. Nhưng em nghĩ trong tiếng Việt có một từ rất cao quý, rất đẹp, để nói lên tất cả. Đó là chữ “Thầy” ạ

Thầy Đại: Anh nói đúng. Tuyệt vời! (Nói mạnh) Chữ đó là chữ an ủi tôi nhất, khuyên bảo tôi nhất, động viên tôi nhất. Chữ “Thầy” chính là trang nghiêm nhất, nhưng cũng trách nhiệm nhất. Khi trẻ con gọi tôi là thầy, tôi còn thấy bình thường, nhưng khi một người lớn nào đó gọi tôi là thầy, tôi luôn thấy giật mình. Mình có đáng làm thầy không? Rốt cuộc thì chữ đó với tôi là cao quý nhất, nhưng cũng nặng nề nhất.

ĐS&PL: Thưa Thầy, sau tất cả, em tin rằng Thầy xứng đáng với chữ “Thầy” theo nghĩa đẹp đẽ và trang nghiêm nhất của tiếng Việt. Xin kính chúc Thầy luôn mạnh khỏe và tiếp tục giữ lửa cho những điều rất thật trong cuộc sống này.

 

Thực hiện: Mạnh Quốc – Thanh Loan

Thiết kế: Hoàng Yến

Tin nổi bật