Thông tin được cập nhật tại báo cáo tại Tổng kết công tác tuyển sinh giai đoạn 2025-2023 và triển khai công tác tuyển sinh năm 2024, 2025 khối đại học và cao đẳng sư phạm diễn ra sáng 15/3 tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
Theo Dân Trí, năm 2023 có tỷ lệ thí sinh nhập học thấp nhất trong giai đoạn 2020-2023. Cụ thể, năm 2023, tổng chỉ tiêu là 663.063, có 546.686 thí sinh trúng tuyển nhập học (chiếm 82,45%).
Tuy nhiên, nếu tính trên tổng số thí sinh dự thi tốt nghiệp THPT, năm 2023 lại có tỷ lệ nhập học cao nhất với 53,12%. Năm 2021 có tỷ lệ nhập học/chỉ tiêu cao nhất với 94,08%.
Năm 2023 có tỷ lệ thí sinh nhập học thấp nhất trong giai đoạn 2020-2023. Ảnh: Dân Trí
Năm 2023, có 400.163 học sinh nhập học, đến năm 2023, có 546.686 thí sinh nhập học. Ảnh: Dân Trí
Vùng đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ nhập học/tỷ lệ tốt nghiệp cao nhất trong cả nước (64,44%). Tiếp đó là vùng Đông Nam Bộ (64,24%) xếp sau là vùng Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (52,65%). Cuối cùng là vùng trung du miền núi phía Bắc có tỷ lệ nhập học/tỷ lệ tốt nghiệp thấp nhất với 40.24%). Ảnh: Dân Trí
Trước đó, tại Hội thảo về tự chủ đại học của ĐH Quốc gia TP.HCM, ông Christophe Lemiere, Trưởng ban phát triển con người Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (World Bank) đưa ra bài báo cáo về vấn đề giáo dục đại học Việt Nam.
Bài phân tích của chuyên gia World Bank chỉ ra, Việt Nam có tỷ lệ nhập học đại học - cao đẳng (ĐH-CĐ) thấp nhất trong các nước Đông Á giai đoạn 2020-2022.
Cách đây 20 năm, tỷ lệ nhập học chung của Trung Quốc thấp hơn Việt Nam. Đến 10 năm trước, tỷ lệ nhập học của hai nước khá tương đồng nhưng hiện nay, tỷ lệ nhập học chung của Việt Nam chỉ bằng một nửa Trung Quốc.
Đáng chú ý, thanh niên Việt Nam thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo chiếm chưa đến 15% tổng số sinh viên đại học và có đến hơn 40% sinh viên thuộc diện khá giả.
Một thông tin đáng lưu tâm là năng lực nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam trong 10 năm liền (2010-2020) không thay đổi, dao động từ hơn 62.000 đến gần 72.000 người.
Báo cáo của chuyên gia World Bank cũng thể hiện, tỷ trọng ngân sách chi tiêu công phân bổ cho giáo dục CĐ-ĐT của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất trong khu vực và các quốc gia tương đương. Dẫn chứng năm 2019, giáo dục ĐH Việt Nam chỉ nhận được 0,23% GDP hoặc 4,9% tổng chi tiêu công cho giáo dục.
Các trường ĐH ở Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào đóng góp của hộ gia đình. Cụ thể, năm 2017, học phí chiếm đến 57% trong nguồn thu của các trường ĐH công lập ở Việt Nam, đến năm 2021, tiền thu học phí chiếm 77% nguồn thu.
Trong khi, hỗ trợ tài chính cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn còn hạn chế như phạm vi bao phủ thấp, giá trị nhỏ và điều khoản trả nợ kém hấp dẫn; không có chương trình học bổng cấp quốc gia.
Chương trình cho vay sinh viên do Ngân hàng Chính sách Xã hội Việt Nam quản lý ngày càng khó tiếp cận. Năm 2011 có 2,4 triệu người thụ hưởng, năm 2017 chỉ còn 725.000 người thụ hưởng và đến năm 2021 chỉ còn 37.000 người thụ hưởng.
Với phương án khác trong trường hợp gặp khó khăn về tài chính (mức học phí cao) trong việc tiếp cận giáo dục ĐH, có đến 50% chọn đổi ngành học nếu gặp khó khăn về tài chính, tối đa chỉ 12% cân nhắc sử dụng tín dụng sinh viên.
Vì sao nhiều thí sinh “từ chối” nhập học đại học?
Hiện nay, thí sinh có nhiều lựa chọn hơn cho nghề nghiệp trong tương lai. Nhiều em không theo học đại học mà hướng đến những con đường khác như học nghề, đi du học, chọn các trường cao đẳng hoặc xuất khẩu lao động.
Theo số liệu của Bộ GD&ĐT, tại Việt Nam, từ năm 2019 - 2020 đã có khoảng 190.000 người đi du học tại nhiều nước trên thế giới. Chiếm phần lớn trong số đó là du học bậc đại học, cao học. Chỉ riêng tại Mỹ, số sinh viên quốc tế người Việt là 20.713 người, chiếm khoảng 2%, đóng góp cho nền kinh tế Mỹ 721 triệu USD.
Ngoài ra, những năm gần đây, không ít thí sinh chuyển sang học nghề như: đầu bếp, sửa chữa ô tô, điện lạnh…
Có nhiều yếu tố dẫn đến việc các thí sinh dù đỗ đại học nhưng vẫn chuyển sang học các chương trình khác, như học phí đại học tại các trường đang có xu hướng tăng ngày càng cao, theo Pháp luật Việt Nam.
Thùy Dung (T/h)