Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Những yếu tố nguy cơ nào khiến trẻ em mắc COVID-19 diễn biến nặng?

  • Đinh Kim
(DS&PL) -

Theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ở trẻ em vừa được bộ Y tế ban hành, những trẻ em bị béo phì, có bệnh nền… dễ có nguy cơ diễn biến nặng.

Tiền Phong đưa tin, bộ Y tế vừa có Quyết định 5155/QD-BYT về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ở trẻ em. Được biết, đây là lần đầu tiên Việt Nam có văn bản hướng dẫn riêng cho đối tượng này.

Trong hướng dẫn, bộ Y tế nêu rõ các đặc điểm lâm sàng thường gặp như thời gian ủ bệnh từ 2 – 14 ngày, trung bình là 4 – 5 ngày.

Bệnh khởi phát với các triệu chứng như sốt, mệt mỏi, đau đầu, ho khan, dau họng, nghẹt mũi/sổ mũi, mất vị giác/khứu giác, nôn và tiêu chảy, đau cơ… Tuy nhiên trẻ thường không có triệu chứng.

Thống kê cho thấy các triệu chứng lâm sàng thường gặp ở trẻ mắc COVID-19 là sốt (chiếm 63%), ho (34%), buồn nôn hoặc nôn (20%), ỉa chảy (20%), khó thở (18%), triệu chứng mũi họng (17%), phát ban (17%), mệt mỏi (16%), đau bụng (15%), triệu chứng giống Kawasaki (13%), không có triệu chứng (13%), triệu chứng thần kinh (12%), kết mạc (11%) và họng đỏ (9%).

Một số biểu hiện khác có thể gặp nhưng ít hơn là tổn thương da niêm (hồng ban các đầu ngón chi, nổi ban da…); rối loạn nhịp tim; tổn thương thận cấp; viêm thanh mạc (tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng bụng, tràn dịch màng tim); gan to, viêm gan; bệnh não (co giật, hôn mê hoặc viêm não).

Theo bộ Y tế, hầu hết trẻ chỉ bị viêm đường hô hấp trên với sốt nhẹ, ho, đau họng, sổ mũi, mệt mỏi; hay viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng 1 – 2 tuần. Khoảng 2% trẻ có diễn tiến nặng, thường vào ngày thứ 5 – 8 của bệnh.

Trong đó, có một số trẻ (khoảng 0,7%) cần điều trị ở các đơn vị hồi sức tích cực với các biến chứng nặng như hộ chứng nguy kịch hô hấp cấp (ARDS), viêm cơ tim, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm trùng và hội chứng viêm đa hệ thống (MIS-C).

Các yếu tố tiên lượng nặng trẻ béo phì, trẻ chậm phát triển, bại não, bệnh phổi mạn, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường, tim bẩm sinh… Tỷ lệ tử vong ở trẻ rất thấp (< 0,1%), hầu hết tử vong do bệnh nền. Trong thời kỳ hồi phục (thường trong giai đoạn từ ngày thứ 7 - 10), nếu không có các biến chứng nặng, trẻ sẽ hết dần các triệu chứng lâm sàng và khỏi bệnh.

Bộ Y tế mới đây đã ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ở trẻ em với nhiều lưu ý quan trọng. Ảnh minh họa: Tiền Phong

Theo báo Tin Tức, trong hướng dẫn, bộ Y tế cũng chỉ ra các yếu tố nguy cơ khiến trẻ mắc COVID-19 dễ diễn biến nặng:

- Trẻ đẻ non, cân nặng thấp

- Béo phì, thừa cân

- Đái tháo đường, các bệnh lý gene và rối loạn chuyển hoá

- Trẻ mắc các bệnh lý phổi mạn tính, hen phế quản

- Bệnh ung thư (đặc biệt là các khối u ác tính về huyết học, ung thư phổi...)

- Bệnh thận mạn tính

- Trẻ ghép tạng hoặc cấy ghép tế bào gốc tạo máu

- Bệnh tim mạch (tim bẩm sinh, suy tim, tăng áp phổi, bệnh động mạch vành hoặc bệnh cơ tim, tăng huyết áp)

- Bệnh lý thần kinh (bao gồm cả chứng sa sút trí tuệ, rối loạn tâm thần)

- Bệnh hồng cầu hình liềm, bệnh thalassemia, bệnh huyết học mạn tính khác

- Các bệnh lý suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải

- Bệnh gan

- Trẻ đang điều trị bằng thuốc corticoid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác

- Các bệnh hệ thống.

Các yếu tố có nguy cơ gây huyết khối ở trẻ mắc COVID-19 như điều trị ICU phải thở máy bất động kéo dài; có đường truyền trung tâm (catheter) hoặc longline; D-dimer ≥ 5 lần giới hạn trên bình thường; béo phì (BMI > 95th percentile); trẻ có tiền sử gia đình có huyết khối tĩnh mạch không rõ nguyên nhân; tiền sử bản thân huyết khối hoặc suy giảm miễn dịch; bệnh ác tính hoạt động, hội chứng thận hư, viêm tiềm tàng hoặc hoạt động, biến cố tắc mạch trên người bệnh huyết sắc tố S; bệnh tim bẩm sinh hoặc mắc phải có ứ máu tĩnh mạch (hội chẩn chuyên khoa); trẻ rối loạn nhịp tim (hội chẩn chuyên khoa).

Về nguyên tắc điều trị COVID-19 ở trẻ em, hướng dẫn của bộ Y tế đề nghị tuân thủ các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm chuẩn trước và trong thời gian điều trị, chăm sóc; phân loại trẻ bệnh theo mức độ và điều trị theo các mức độ nặng của bệnh; tuân thủ nguyên tắc cấp cứu A-B-C: Kiểm soát đường thở, hỗ trợ hô hấp, tuần hoàn; cá thể hóa các biện pháp điều trị, đặc biệt là các ca bệnh nặng nguy kịch.

Song sóng với đó là điều trị nguyên nhân bằng thuốc kháng virus; điều trị cơn bão cytokin bằng corticoid, lọc máu, ức chế sản xuất hoặc đối kháng IL receptor; điều trị chống đông ở trẻ em cần cân nhắc cẩn thận, nhất là ở trẻ < 12 tuổi; sử dụng kháng sinh/ kháng nấm khi có bằng chứng lâm sàng và xét nghiệm.

Ngoài ra, đảm bảo trẻ được bú mẹ và dinh dưỡng hợp lý theo mức độ nặng của bệnh, bù nước điện giải, vật lý trị liệu, sức khỏe tâm thần, điều trị triệu chứng như hạ sốt giảm ho, giảm đau… và điều trị bệnh nền (nếu có).

Bộ Y tế lưu ý, đối với thuốc chưa được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo sử dụng, chưa được cấp phép lưu hành, chưa được cấp phép sử dụng khẩn cấp tại bất kỳ nước nào trên thế giới, việc sử dụng phải tuân thủ các quy định về thử nghiệm lâm sàng của bộ Y tế.

Đối với thuốc đã được Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo sử dụng hoặc được cấp phép lưu hành, hoặc được cấp phép sử dụng khẩn cấp tại ít nhất 1 nước trên thế giới, có thể được chỉ định điều trị theo diễn biến bệnh lý của người bệnh.

Đinh Kim (T/h)

Tin nổi bật