Lợi ích của kỳ thi tốt nghiệp THPT
Tiền Phong dẫn lời TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT) cho rằng, vấn đề đặt ra hiện nay không chỉ là nên giữ hay bỏ kỳ thi này mà là làm thế nào để một kỳ thi có thể phục vụ hiệu quả hai mục tiêu vốn khác biệt.
TS Hoàng Ngọc Vinh, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp (Bộ GD&ĐT). Ảnh: Tiền Phong.
Theo ông Vinh, có ba phương án chính đang được bàn luận.
Thứ nhất, tổ chức hai kỳ thi riêng biệt: một kỳ để xét tốt nghiệp phổ thông, một kỳ tuyển sinh đại học. Phương án này rõ ràng về mục tiêu nhưng khó khả thi bởi gây tốn kém ngân sách, nhân lực, tạo áp lực kép cho học sinh và tái diễn cảnh luyện thi tràn lan. Nhiều trường đại học cũng không đủ năng lực và điều kiện để tổ chức kỳ thi riêng theo chuẩn.
Thứ hai, bỏ hẳn kỳ thi tốt nghiệp THPT, giao việc đánh giá công nhận tốt nghiệp cho nhà trường.
Tuy nhiên, phương án này lại bất cập khi chưa có hệ thống đảm bảo chất lượng độc lập, việc công nhận tốt nghiệp chỉ dựa vào đánh giá nội bộ dễ dẫn tới mất niềm tin, thiếu công bằng và gây khó khăn cho phân luồng học sinh sau THPT và công nhận bằng cấp với thế giới để du học.
Thứ ba, giữ một kỳ thi chung - vẫn là lựa chọn khả thi nhất nếu có điều chỉnh hợp lý. Trọng tâm không nằm ở số lượng kỳ thi mà ở cách thiết kế sao cho một kỳ thi đáp ứng được cả hai mục tiêu.
Cũng theo ông Vinh, điều quan trọng là xác định rõ ràng: phần nào trong bài thi nhằm đánh giá điều kiện công nhận tốt nghiệp, phần nào để phục vụ tuyển sinh đại học. Khi mục tiêu được phân định rõ, cấu trúc đề thi cũng cần thay đổi tương ứng.
Ông Vinh cũng nhấn mạnh, trong bối cảnh đang lấy ý kiến sửa đổi Luật Giáo dục Đại học, đây là thời điểm quan trọng để xác lập rõ quyền tự chủ tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học, trên nguyên tắc trách nhiệm giải trình.
Việc sửa Luật Giáo dục Đại học cần đi kèm cải cách thi cử để toàn hệ thống chuyển từ tư duy kiểm soát sang khuyến khích chất lượng, từ áp đặt sang trao quyền có điều kiện. Một kỳ thi vẫn có thể phục vụ tốt cả xét tốt nghiệp và tuyển sinh đại học - nếu mục tiêu được phân định rõ và thiết kế lại theo hướng linh hoạt, chuyên nghiệp.
“Khi đó, kỳ thi chung sẽ không còn là “điểm nghẽn” mà trở thành “điểm tựa” cho cả giáo dục phổ thông và giáo dục đại học phát triển hài hòa, bền vững. Đã đến lúc cần một cuộc cải cách triệt để về thi cử, đo lường đánh giá chất lượng trong hệ thống dựa trên các trụ cột chính: công nghệ; xã hội hóa nguồn lực; tính chuyên nghiệp của đội ngũ”, ông Vinh nêu quan điểm.
Góc nhìn thẳng thắn của chuyên gia về Kỳ thi tốt nghiệp THPT
Chia sẻ trên Vnexpress, Tiến sĩ giáo dục Trương Đình Thăng nêu quan điểm, nhiều câu hỏi đối với ngành giáo dục và cần được xem xét cẩn trọng: Giáo dục phổ thông là gì? Kỳ thi tốt nghiệp có còn cần thiết? Và nếu không, chúng ta sẽ tổ chức hệ thống đánh giá như thế nào để đảm bảo công bằng, hiệu quả?
Mặt tích cực của đề thi tốt nghiệp năm nay là đã thể hiện rõ vai trò phân hóa, giúp các trường đại học tuyển chọn được thí sinh có năng lực phù hợp. Ảnh minh hoạ.
Điều 29, Luật Giáo dục 2025, nêu rõ: "Giáo dục phổ thông nhằm phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách... ; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động...". Vì vậy, giáo dục phổ thông không đặt nặng mục tiêu phân tầng, loại trừ, mà bảo đảm cơ hội học tập công bằng và toàn diện cho mọi học sinh.
Trong bối cảnh Bộ GD&ĐT đang tham mưu sửa đổi Luật Giáo dục và đề xuất bỏ bằng tốt nghiệp THCS, đây có thể là cơ hội để mạnh dạn đặt vấn đề bỏ cả kỳ thi tốt nghiệp THPT, nhằm hoàn thiện logic cải cách một cách triệt để.
Xét theo nội hàm và mục tiêu của giáo dục phổ thông, việc giữ lại kỳ thi tốt nghiệp THPT - vốn đang thực hiện "nhiệm vụ kép" là xét tốt nghiệp và xét tuyển đại học - dường như không còn phù hợp. Hai chức năng này khác biệt về mục tiêu, mức độ và cách tiếp cận đánh giá, dẫn đến việc kỳ thi khó có thể cùng lúc đáp ứng tốt cả hai yêu cầu: nếu thiết kế để đảm bảo tính phân hóa phục vụ tuyển sinh thì sẽ quá sức đối với mục tiêu công nhận tốt nghiệp phổ thông; ngược lại, nếu làm nhẹ nhàng để đảm bảo tỷ lệ tốt nghiệp thì lại thiếu giá trị trong tuyển chọn đại học. Điều này khiến kỳ thi lâm vào tình trạng mất cân đối, không hiệu quả về mặt chức năng.
Mặt tích cực của đề thi tốt nghiệp năm nay là đã thể hiện rõ vai trò phân hóa, giúp các trường đại học tuyển chọn được thí sinh có năng lực phù hợp. Mặt hạn chế vẫn là bắt buộc mọi học sinh phải thi chung, kể cả những em không có nhu cầu vào đại học. Điều này tạo áp lực lớn không chỉ cho các gia đình mà còn là áp lực chung cho toàn xã hội.
Nhiều quốc gia đã lựa chọn tách bạch mục tiêu đánh giá tốt nghiệp và mục tiêu tuyển sinh đại học, nhằm đảm bảo sự phù hợp, công bằng và hiệu quả của hệ thống. Ví dụ, Phần Lan không tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông bắt buộc. Học sinh hoàn thành chương trình sẽ được công nhận tốt nghiệp. Kỳ thi Matriculation Examination (Ylioppilastutkinto) chỉ dành cho học sinh muốn học tiếp lên đại học. Đây là mô hình lý tưởng khi giáo dục phổ thông được xem là quyền lợi toàn dân, còn đại học là lựa chọn của cá nhân theo năng lực.
Singapore tổ chức kỳ thi A-Level chỉ cho học sinh theo hướng học thuật, không áp dụng đại trà. Học sinh học nghề hoặc kỹ thuật không bắt buộc dự kỳ thi này. Tương tự, tại Canada và Australia, việc xét tốt nghiệp dựa chủ yếu vào quá trình học tập, kết hợp kiểm tra định kỳ, không bắt buộc kỳ thi quốc gia. Những mô hình này cho thấy hoàn toàn có thể thực hiện một cách hiệu quả việc đánh giá năng lực học sinh mà không cần kỳ thi tốt nghiệp đại trà. Giáo dục phổ thông Việt Nam cũng cần xem xét điều chỉnh để phù hợp với xu thế phát triển chung của giáo dục phổ thông và phân luồng hiệu quả cho các bậc học tiếp theo.
Từ những kinh nghiệm và thực tế phân tích ở trên, có thể đề xuất mô hình cải cách phù hợp cho Việt Nam theo hai hướng chính.
Thứ nhất, công nhận tốt nghiệp THPT cho tất cả học sinh đã hoàn thành chương trình học. Việc đánh giá có thể dựa trên quá trình học tập, kết hợp kiểm tra định kỳ và các bài đánh giá theo chuẩn đầu ra của chương trình giáo dục phổ thông 2018. Cách làm này phù hợp với định hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học, giảm áp lực thi cử mà vẫn đảm bảo độ tin cậy trong việc công nhận tốt nghiệp. Khi được triển khai đồng bộ, có giám sát chuyên môn và ứng dụng công nghệ như học bạ điện tử, phương pháp đánh giá quá trình này hoàn toàn có thể thay thế kỳ thi tốt nghiệp, đồng thời phản ánh đúng năng lực thực tế của học sinh.
Thứ hai, duy trì một kỳ thi tuyển sinh có tính phân hóa cao, nhưng chỉ dành cho học sinh có nhu cầu học tiếp lên đại học. Kỳ thi này cần được tổ chức quy mô quốc gia, và sử dụng như công cụ chính thức để xét tuyển đại học. Việc này không chỉ giúp tuyển chọn đúng đối tượng, mà còn tránh phải quay lại mô hình thi riêng của từng trường đại học - vốn từng gây tốn kém, thiếu minh bạch và không hiệu quả trong quá khứ.
Hướng đi này mang lại lợi ích đa chiều cho toàn hệ thống giáo dục. Trước hết, đối với học sinh, việc tách bạch giữa mục tiêu tốt nghiệp và tuyển sinh giúp giảm đáng kể áp lực thi cử, đặc biệt với những em không có định hướng vào đại học. Các em có thể lựa chọn học nghề, tham gia thị trường lao động hoặc phát triển năng lực riêng một cách sớm và chủ động hơn.
Về phía xã hội, mô hình này góp phần tiết kiệm chi phí tổ chức kỳ thi đại trà, đồng thời nâng cao hiệu quả phân luồng sau THPT - một trong những khâu yếu trong hệ thống hiện nay. Các trường đại học cũng được hưởng lợi khi có một kỳ thi phân hóa rõ ràng, chất lượng, làm căn cứ xét tuyển mà không phải quay lại hình thức tổ chức thi riêng tốn kém, phân tán và dễ phát sinh bất cập. Cuối cùng, về mặt hệ thống, ngành giáo dục sẽ thiết lập được mô hình phân tầng hợp lý và đồng bộ giữa phổ thông - nghề nghiệp - đại học, giúp toàn bộ hệ thống vận hành hiệu quả, minh bạch và bền vững hơn.
Việc cải cách kỳ thi tốt nghiệp THPT không chỉ là điều chỉnh kỹ thuật thi cử, mà là một bước chuyển chiến lược về tư duy giáo dục: từ đồng loạt sang phân hóa, từ thi cử sang đánh giá năng lực thực chất, từ áp lực điểm số sang định hướng học tập cá nhân hóa. Nếu thực hiện đồng bộ theo hướng công nhận tốt nghiệp phổ thông toàn diện và tổ chức thi đại học có tính phân loại, đây sẽ là bước tiến quan trọng đưa giáo dục Việt Nam thực chất và hiệu quả hơn.
Kỳ thi tốt nghiệp THPT nên duy trì tuy nhiên cần thay đổi?
Tiền Phong dẫn lời thầy Nguyễn Thành Công, giáo viên trường THPT chuyên Sư phạm Hà Nội cho rằng, trong những năm trở lại đây, nhiều người cho rằng không nên giữ lại kỳ thi tốt nghiệp THPT hàng năm, thay vào đó các Sở GD&ĐT cấp chứng nhận hoàn thành chương trình THPT cho các học sinh sau khi học hết cấp 3.
Theo thầy Nguyễn Thành Công, giáo viên trường THPT chuyên Sư phạm Hà Nội, kỳ thi Tốt nghiệp THPT không nên bỏ mà chỉ cần cải tiến cho phù hợp. Ảnh: Tiền Phong.
Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, tỉ lệ đỗ quá cao nên không còn ý nghĩa phân loại.
Nhiều năm qua, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp luôn trên 97–99%, cá biệt có năm gần chạm 100%. Khi “kiểu gì cũng đỗ”, kỳ thi mất dần vai trò sàng lọc, trở thành hình thức.
Chi phí tổ chức lớn ở chỗ, ngân sách tổ chức kỳ thi mỗi năm tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng cho in sao đề thi, coi thi, chấm thi, an ninh, công nghệ thông tin... Với kết quả gần như “ai cũng đỗ”, hiệu quả đầu tư chưa thật tương xứng. Bên cạnh đó áp lực không cần thiết khi học sinh chịu căng thẳng ôn thi suốt nhiều tháng. Tạo thêm áp lực cho học sinh yếu, vùng khó khăn, thay vì khuyến khích học thật – học sâu.
Có thể thay thế bằng hình thức khác như dựa vào đánh giá quá trình học tập (học bạ, kiểm tra định kì) để xét tốt nghiệp. Một số nước đã áp dụng hiệu quả mô hình này (Phần Lan, Hà Lan...).
Tuy nhiên, theo quan điểm của thầy Công, kỳ thi Tốt nghiệp THPT không nên bỏ mà chỉ cần cải tiến cho phù hợp bởi các lí do.
Thứ nhất, kỳ thi là công cụ đảm bảo chất lượng đầu ra. Dù tỷ lệ đỗ cao, kì thi vẫn có giá trị kiểm định mặt bằng giáo dục toàn quốc, đồng thời là căn cứ để phát hiện lỗ hổng chương trình, phân tích phổ điểm, cải cách giáo dục trên diện rộng.
Thứ hai, nếu không thi có thể dẫn tới nguy cơ học sinh buông lỏng. Thi tốt nghiệp là “đích đến”, tạo động lực học tập cho học sinh. Đối với học sinh giỏi, để đạt mục tiêu tốt nghiệp không quá khó và nhẹ nhàng, nhưng vẫn phải tham gia để lấy điểm xét tuyển đại học, học sinh vẫn phải cố gắng để đạt được điểm cao. Nếu chỉ xét học bạ có thể dẫn tới nhiều tiêu cực trong việc đánh giá điểm học bạ, khó khăn cho các trường Đại học trong khâu xét tuyển, nở rộ các kì thi riêng để tuyển sinh vào các trường Đại học top đầu, mất đi vai trò xét tuyển đại học của kì thi tốt nghiệp dẫn tới mất công bằng giáo dục đối với học sinh giữa các vùng, miền.
Thứ ba, thi tốt nghiệp gắn với tuyển sinh đại học. Kết quả kỳ thi tốt nghiệp đang là kênh tuyển sinh chính của hơn 70% trường ĐH, CĐ. Nếu bỏ, các trường đại học phải tổ chức thi riêng, gây tốn kém và áp lực kép, đồng thời tạo ra sự mất công bằng giáo dục giữa các vùng, miền. Mặt khác, sự tương đồng về “học bạ” sẽ không giống nhau giữa các trường, tỉnh/thành và vùng miền gây khó khăn cho tuyển sinh của các trường Đại học.
Cuối cùng là vì nhiều nơi còn bất cập về chất lượng dạy học nên vẫn cần một kì thi chung toàn quốc để giữ chuẩn.
Từ các lập luận trên, thầy Công cho rằng, không nên bỏ kỳ thi tốt nghiệp mà theo hướng cải tiến kì thi theo hướng gọn nhẹ, tập trung đánh giá thực tế, giảm học tủ, giảm luyện thi. Xét tốt nghiệp dựa trên điểm thi tốt nghiệp cùng với điểm học bạ và sử dụng đa dạng hình thức xét tuyển đại học để tăng cơ hội cho các học sinh có nhu cầu.