Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Điều tra 2 doanh nghiệp "mua bán" hàng vạn tấn cao su không có thật

(DS&PL) -

dấu hiệu mua bán hóa đơn bất hợp pháp tại 2 công ty TNHH MTV Cao su Bảo Long và công ty TNHH Thương mại dịch vụ Thành Phước.

Kiểm toán Nhà nước vừa chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Phước để điều tra làm rõ dấu hiệu mua bán hóa đơn bất hợp pháp tại 2 công ty TNHH MTV Cao su Bảo Long và công ty TNHH Thương mại dịch vụ Thành Phước.

Nhiều dấu hiệu bất thường

Kiểm toán Nhà nước vừa chuyển hồ sơ đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Phước để điều tra làm rõ, xử lý theo quy định pháp luật về dấu hiệu mua bán hóa đơn giá trị gia tăng của công ty TNHH MTV Cao su Bảo Long (công ty Bảo Long) và công ty TNHH Thương mại dịch vụ Thành Phước (công ty Thành Phước), cùng có trụ sở tại huyện Chơn Thành (Bình Phước).

Trước đó, thông qua kiểm toán ngân sách địa phương năm 2019 của tỉnh Bình Phước, Kiểm toán Nhà nước phát hiện nhiều dấu hiệu bất thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của 2 doanh nghiệp này. Cụ thể, công ty Bảo Long thành lập ngày 10/3/2014, thay đổi lần thứ nhất ngày 23/6/2016 với vốn điều lệ 1,5 tỷ đồng, có ngành nghề kinh doanh là mua bán cao su, mủ cao su, dù doanh thu rất lớn nhưng lợi nhuận rất thấp hoặc lỗ. Trong đó, doanh thu năm 2018 là 1.668 tỷ đồng, lợi nhuận hơn 5 tỷ đồng, năm 2019 doanh thu 2.447 tỷ đồng nhưng báo lỗ 156 triệu đồng.

Công an khám xét doanh nghiệp mua bán hóa đơn trái phép hồi tháng 11/2019.

Công ty Thành Phước có vốn điều lệ khoảng 10 tỷ đồng nhưng doanh thu lớn và tăng mạnh trong 2 năm 2018 và 2019 với tổng cộng gần 2.400 tỷ đồng. Tuy nhiên công ty này không sở hữu phương tiện vận chuyển, chỉ có kho hàng khoảng 1.000m2 nhưng chủ yếu để chứa hàng xuất bán bị trả lại do không đạt chất lượng. Mặt khác, doanh thu doanh nghiệp này rất lớn nhưng lợi nhuận rất thấp, năm 2019 doanh thu gần 2.015 tỷ đồng nhưng lãi chỉ khoảng 219 triệu đồng. Trong hai năm 2018 và 2019, công ty Bảo Long đã mua bán khoảng 70.000 tấn mủ cao su, nhưng không có kho hàng, phương tiện vận chuyển. Hàng hóa chủ yếu được ký gửi và thuê kho nhưng chi phí ký gửi, thuê kho hàng tháng chỉ khoảng 6 triệu đồng/tháng.

Năm 2019, công ty Bảo Long thuê 2 xe để vận chuyển nhưng lượng xăng dầu phát sinh lớn hơn nhiều mức tiêu thụ hợp lý cho 2 xe, tồn kho cuối năm thấp không phù hợp với quy mô kinh doanh, không phát sinh chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh mua bán cao su như: Thuê container, phí bao bì, đóng gói, thuê cần cẩu, xe nâng hàng để bốc xếp hàng hóa khi nhận hàng hoặc xuất bán... Báo cáo kiểm toán Nhà nước chỉ ra nhiều dấu hiệu khác vi phạm quy định tại Điều 203 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước của công ty Bảo Long.

Sử dụng hóa đơn giả để khấu trừ thuế

Năm 2019, công ty Bảo Long ký hợp đồng mua mủ cao su của công ty Thành Minh Khang với tổng giá trị khoảng 800 tỷ đồng, tương ứng khoảng 25.000 tấn mủ cao su và ký hợp đồng bán lại cho công ty TNHH Vạn Lợi với địa chỉ giao hàng tại Cảng Cát Lái (TP.HCM).

Tuy nhiên, hợp đồng giữa công ty Bảo Long và công ty Thành Minh Khang quy định địa chỉ giao hàng tại kho của công ty Bảo Long tại Phú Giáo (Bình Dương), trong khi theo sổ sách thì công ty Bảo Long không có kho hàng tại Phú Giáo. Như vậy, khoảng 25.000 tấn mủ cao su được vận chuyển từ TP.HCM lên Phú Giáo sau đó lại chuyển xuống Cảng Cát Lái.

Hơn nữa, theo hợp đồng mua bán giữa hai bên thì chi phí bốc xếp hàng mỗi bên chịu một đầu nhưng theo sổ sách thì công ty Bảo Long lại không phát sinh chi phí bốc xếp đối với lượng hàng hóa này, là dấu hiệu cho thấy nhiều khả năng việc mua bán cao su theo các hợp đồng nêu trên là không có thật và công ty Bảo Long sử dụng các hóa đơn mua hàng của công ty Thành Minh Khang để khấu trừ thuế.

Đối với công ty Thành Phước, kiểm toán Nhà nước phát hiện Công ty này khi xuất bán mủ cao su không xuất hóa đơn cho từng chuyến xe mà xuất hóa đơn chung theo giá trị của từng hợp đồng mua bán, các xe khi xuất hàng cũng không có phiếu cân hoặc phiếu xuất kho để xác định trọng lượng hàng hóa của từng chuyến xe và trách nhiệm của lái xe về khối lượng hàng hóa vận chuyển, không có biên bản nghiệm thu, thanh lý hợp đồng. Trọng lượng hàng hóa trên các hóa đơn luôn là số chẵn theo đơn vị chục, trăm tấn là không phù hợp với thông lệ vận chuyển, kinh doanh mặt hàng mủ cao su.

Ngoài ra công ty còn ký hợp đồng với 2 đơn vị vận chuyển những đơn giá vận chuyển cố định 300.000 đồng/tấn không gắn với cự ly vận chuyển là không phù hợp với hoạt động vận chuyển hàng hóa. Do đó đây là bằng chứng cho thấy việc mua bán cao su nhiều khả năng là không có thật, là dấu hiệu vi phạm quy định pháp luật.

"Đây là những dấu hiệu cho thấy ngoài một số hợp đồng mua bán cao su có thật, thì phần lớn hoạt động mua bán cao su có khả năng là không có thật, tức có dấu hiệu của hoạt động mua bán hóa đơn bất hợp pháp" “ Trích Báo cáo kiểm toán Nhà nước.

Thu Huyền

Bài đăng trên ấn phẩm Đời sống & Pháp luật số Thứ 3 (160)

Tin nổi bật