Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Cảm ơn hay cám ơn đúng chính tả?

  • Mộc Miên
(DS&PL) -

“Cảm ơn” và “cám ơn” đều được sử dụng khá phổ biến trong tiếng Việt và đều có nguồn gốc từ hai chữ tiếng Hán, có âm Hán Việt đều là “cảm ân”.

Ngữ pháp và ngôn từ Tiếng Việt vô cùng phong phú về cả ngữ nghĩa và cách viết. Có rất nhiều từ khi nói rất dễ dàng nhưng khi viết lại bị nhầm lẫn.

Hai trong số những từ đó là cảm ơncám ơn, đều bắt nguồn từ 2 chữ tiếng Hán đó chính là cảm ân, có nghĩa là cảm tạ ân huệ, cảm kích trước ân huệ mà mình được nhận từ người khác.

Cảm ơn hay cám ơn?

Cám là biến thể thanh điệu từ thượng (dấu hỏi) sang khứ (dấu sắc) của chữ cảm [感], có nghĩa tổng quát là “xúc động”, không những chỉ có ở cám ơn mà còn có ở cám cảnh, cám dỗ, hoặc như trong câu thơ ở bài “Tuyệt cốc” của Phan Thanh Giản:

Lên gành xuống thác, thương con trẻ;

Vượt biển trèo non, cám phận già.

Theo đó, từ cám đã được dùng rất lâu đời, đã thành truyền thống trong việc sử dụng từ ngữ. Ngay từ quá nửa thế kỷ 17, trong Từ điển Việt-Bồ-La (Roma, 1651), viết bằng chữ Việt ABC, A. de Rhodes đã ghi nhận:

“cám ơn: dar graças; gratias agere”

“cám dĕô (dỗ - AC): tentação; tentatio, onis”

“cám cảnh: miseravel; miser, a, um”

Trong Dictionarium Anamitico Latinum (viết tay, 1772 - 1773): Pigneaux de Béhaine còn ghi nhận: “cám cảnh (2 lần: một lần ở chữ cám, một lần ở chữ cảnh); cám tạ; cám ơn; cám nghĩa”. Trong Dictionarium Anamitico Latinum (Serampore, 1838), J. L. Taberd chẳng những cũng ghi nhận y như thế (cám cảnh; cám tạ; cám ơn; cám nghĩa (chữ nghĩa viết là ngãi), mà còn có cả 2 mục “giao cám (carnalis copula)” và “cám động lòng thương”. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của chẳng những giảng cám là “biết ơn, biết nghĩa, động lòng” mà còn có đến 8 mục: “cám tạ; cám cảnh; cám mến; cám thương; cám ơn; cám động; cám đội; cám dỗ”.

Tất cả những quyển từ điển trên đây đều ghi nhận cám ơn, không có cảm ơn. Việt Nam tự điển của Khai trí Tiến đức thì chỉ có cảm ân (“tỏ ý biết ơn”). Đến Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (NXB Khoa học xã hội, 1967) mới thấy có thêm mục cảm ơn nhưng bấy giờ (thập kỷ 1960) 2 chữ này cũng chưa thông dụng.

Chỉ đến vài thập kỷ gần đây cảm ơn mới được dùng nhiều rồi Từ điển tiếng Việt 2020 của Trung tâm từ điển học do Hoàng Phê chủ biên đã nâng 2 chữ cảm ơn lên hàng chính thức và hạ mục cám ơn xuống hàng khẩu ngữ.

Theo đó, hiện tại, cách dung của hai từ này sẽ như sau:

- Cảm ơn là ghi nhận trong lòng cái việc tốt hữu ích và cần thiết mà người khác đã làm cho mình

- Cám ơn là bày tỏ sự cảm ơn bằng lời nói khi giao tiếp.

M.M (T/h)

Tin nổi bật