Theo Bộ luật Hình sự Việt Nam, hành vi bắt cóc trẻ em, dù là đã thành công hay chưa, đều là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Cụ thể, Điều 152 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định rõ ràng về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với mức án nghiêm khắc. Trong đó, việc thực hiện hành vi mà chưa đạt được mục đích cũng được coi là tội phạm.
Theo Điều 14 Bộ luật Hình sự 2015, chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra hoàn cảnh vật chất hoặc tinh thần để thực hiện hành vi phạm tội. Dù hành vi chuẩn bị này chưa gây hậu quả trực tiếp, nhưng nó thể hiện ý định thực hiện tội phạm.
Ví dụ, một người lập kế hoạch chi tiết, thuê người theo dõi và chuẩn bị các phương tiện cần thiết để bắt cóc trẻ em nhưng không thực hiện được hành vi này do bị phát hiện và ngăn chặn. Trong trường hợp này, người đó vẫn bị xem là phạm tội và có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Ý định phạm tội cũng được xem xét trong quy trình xác định tội danh. Nếu qua điều tra, cơ quan chức năng chứng minh được rằng người đó có ý định bắt cóc trẻ em, thì dù chưa thành công, người đó vẫn có thể bị truy tố và chịu hình phạt theo quy định. Hành vi này được coi là có tính nguy hiểm cao, gây ra tâm lý hoang mang và lo lắng cho xã hội.
Khung hình phạt đối với hành vi bắt cóc chưa thành thường không nặng nề bằng hành vi đã hoàn thành. Tuy nhiên, các yếu tố như mức độ chuẩn bị, tính chất nghiêm trọng của hành vi và hậu quả tâm lý cho nạn nhân và gia đình cũng sẽ được xem xét.
Trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi bắt cóc trẻ em chưa thành vẫn có thể bị kết án tù, bị phạt tiền hoặc bị áp dụng các biện pháp giám sát, cải tạo.
Như vậy, có thể thấy rằng hành vi bắt cóc trẻ em chưa thành vẫn bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi này sẽ phải đối mặt với những hình phạt nghiêm khắc từ pháp luật. Việc này không chỉ nhằm bảo vệ trẻ em mà còn để răn đe những kẻ có ý định phạm tội, góp phần tạo nên một xã hội an toàn hơn.
Bắt cóc trẻ em là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, kể cả khi chưa thành công. Ảnh minh họa
Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, người có hành vi bắt cóc trẻ em tùy theo mục đích, tình tiết thực hiện hành vi phạm tội mà có thể cấu thành một trong các tội danh sau đây:
Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi
Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ trẻ em có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi với mức hình phạt cao nhất lên đến 15 năm tù.
(Căn cứ Điều 153 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Người nào bắt cóc trẻ em làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản với mức hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân.
(Căn cứ Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tội mua bán người dưới 16 tuổi
Người nào thực hiện một trong các hành vi như:
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận trẻ em để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo.
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận trẻ em để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
- Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp trẻ em để thực hiện 02 hành vi ở trên.
Thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội mua bán người dưới 16 tuổi với mức hình phạt cao nhất lên đến tù chung thân.
(Căn cứ Điều 151 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tội bắt cóc con tin
Người nào bắt, giữ hoặc giam trẻ em làm con tin nhằm cưỡng ép cơ quan, tổ chức, cá nhân … làm hoặc không làm một việc như một điều kiện để thả con tin thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội bắt cóc con tin với mức hình phạt tối đa lên đến 15 năm tù.
(Căn cứ Điều 301 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).