"Nữ quái" xinh đẹp chuyên dụ dỗ học sinh tiểu học để lấy hoa tai bằng vàng tây, vòng bạc đã có 3 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối tượng vừa ra tù lại tiếp tục tái phạm.
Công an tiến hành lấy lời khai Dương Thị Thêm. Ảnh: Bảo vệ Pháp luật |
Ngày 21/5, Công an tỉnh Thanh Hoá cho biết, Công an huyện Thọ Xuân vừa điều tra, làm rõ và bắt giữ đối tượng Dương Thị Thêm (SN 1988, ở xã Xuân Sinh, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
Kết quả điều tra ban đầu, từ tháng 5/2020 đến nay Công an huyện Thọ Xuân liên tiếp nhận được tin báo của các trường tiểu học thị trấn Thọ Xuân và trường tiểu học Nam Giang về việc có một phụ nữ đã dụ dỗ và chiếm đoạt tài sản là hoa tai vàng, vòng bạc đeo cổ của các em học sinh.
Đánh giá sự việc nghiêm trọng, Công an huyện Thọ Xuân đã thành lập ban chuyên án truy xét để điều tra, làm rõ.
Đến ngày 18/5/2020, Công an huyện Thọ Xuân đã bắt được đối tương là Dương Thị Thêm ở xã Xuân Sinh, huyện Thọ Xuân.
Công an xác định, chỉ từ cuối tháng 4/2020 đến khi bị bắt, Dương thị Thêm đã gây ra hàng chục vụ lừa đảo chiếm đoạt hoa tai bằng vàng tây, vòng bạc ở cổ của các em học sinh các trường tiểu học trên địa bàn huyện.
Toàn bộ số tài sản lấy được, Thêm đã đem đến các hiệu vàng ở TP.Thanh Hóa bán lấy tiền tiêu xài.
Thông tin được biết, Dương Thị Thêm đã có 3 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vừa ra tù ngày 25/4/2020, đối tượng lại tiếp tục tái phạm.
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật Hình sự 2015) 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Tái phạm nguy hiểm; đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên; b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này; c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Thủy Tiên (T/h)