(ĐSPL) - Ngoại tình hay còn gọi là hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng cũng là một tội nhưng dường như ít có người nào bị xử lý hình sự vì "tội danh" ngoại tình.
Khó xử vì luật chặt, quan niệm thoáng
Mới đây, tại buổi họp báo thường kỳ của Chính phủ, theo Văn phòng Chính phủ, việc ban hành Nghị định số 67/2015 là để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 110/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Về xử lý hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng có những điểm đáng chú ý.
Phạt tiền từ 1-3 triệu đồng đối với một trong các hành vi: Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ. Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác. Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ. Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi 3 đời. Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi. Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi như: Lợi dụng việc ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân. Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu về trực hệ.
Người ngoại tình có thể bị phạt tù |
Hiện nay, hành vi chung sống như vợ chồng với người khác có thể có dấu hiệu của tội phạm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo quy định Bộ luật Hình sự:
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm.
Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tuyên hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV “Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của Bộ luật Hình sự do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - TANDTC - VKSNDTC ban hành, thì hành vi “chung sống như vợ chồng”: Là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp:
- Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng, như làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát,...
- Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong Điều 147 BLHS, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính, mà lại thực hiện chính hành vi đó, hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong điều luật.
Nói về chuyện bồ bịch, trong Hội thảo Việt Nam học lần III tại Hà Nội tháng 12/2008, có một đề tài về ngoại tình được nghiên cứu sinh Nguyễn Khánh Linh cùng Giáo sư Jack Dash Harris trình bày. Theo nghiên cứu này, ở phương Tây chỉ có 3 khái niệm cho các mối quan hệ ngoài vợ chồng là: Nhân tình, qua đường, gái điếm. Trong khi đó, ở Việt Nam có đến ít nhất 8 nhóm khác nhau như vợ nhỏ, em út, tình nhân cho đến các dạng “ăn bánh trả tiền” từ rẻ tiền đến cao cấp và cả thể loại tình yêu không tình dục nơi công sở. Những kiểu quan hệ ngoài vợ chồng này thường được đội cái mũ chung là “hành vi mua dâm” - một cách để vui bạn bè, kết thân các nhóm nam, thậm chí đơn giản chỉ là khẳng định nam tính. Thế nên, theo hai nhà nghiên cứu, chuyện ngoại tình rất phổ biến ở Việt Nam, “phổ biến đến mức khiến đa số người nghĩ đó là chuyện có thể chấp nhận”. Nhưng tất nhiên, chỉ với đàn ông mà thôi vì phụ nữ Việt vẫn bị thuyết tam tòng, tứ đức đè nặng. Theo báo Pháp luật Việt Nam |
Nói về điều kiện “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”, ở góc độ pháp lý, theo Thông tư liên tịch 01 ngày 25/9/2001 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, TAND Tối cao, VKSND Tối cao quy định là vậy. Thế nhưng, trong nhiều vụ việc, rõ mười mươi là ngoại tình, bắt tại trận nhưng cơ quan chức năng đành bó tay không xử phạt hành chính vì tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng được vì họ không có con chung, tài sản cũng không, cơ quan, láng giềng ai cũng biết đó chỉ là chuyện bồ bịch. Mà chuyện bồ bịch, pháp luật đâu có chế tài. Không có xử phạt hành chính lần một về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng thì lấy đâu căn cứ để xử lý hình sự?
Dù đã có thông tư hướng dẫn nhưng thực tiễn hơn 15 năm thi hành BLHS 1999 cho thấy rất khó xử lý hình sự người ngoại tình vì các lý do sau:
Thứ nhất, thực tế rất ít khi xảy ra trường hợp người đang có vợ, có chồng mà “kết hôn” được với người khác vì pháp luật quy định thủ tục đăng ký kết hôn rất chặt chẽ (nếu có xảy ra cũng rất hãn hữu, do làm giả giấy tờ…).
Thứ hai, đối với trường hợp “chung sống như vợ chồng”, các cơ quan tố tụng phải chứng minh là những người vi phạm có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung, đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ ngoài vợ ngoài chồng này. Như vậy, đối với các quan hệ ngoại tình lén lút, không được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng hoặc chưa được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục thì đều “thoát” tội này.
Đó là chưa kể, nếu các cơ quan tố tụng chứng minh được người vi phạm có “kết hôn” hoặc có “chung sống như vợ chồng” thì cũng phải thỏa mãn các điều kiện khác là “gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
Quy định sửa đổi: Vẫn khó xử lý?
Dự thảo BLHS (sửa đổi) mới nhất đã có sửa đổi, bổ sung quy định về tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 181). Theo đó, người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ mà thuộc một trong các trường hợp sau thì phạm tội vi phạm chế độ một vợ một chồng: Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Hình phạt ở khoản cơ bản này (khoản 1) là cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm…
Như vậy, Điều 181 dự thảo chỉ luật hóa hướng dẫn trong Thông tư liên tịch số 01/2001. Mà các cơ quan tố tụng hầu như không xử lý hình sự người ngoại tình vì rất khó chứng minh được các trường hợp, các điều kiện theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 01/2001.
Ngày nay, thực tiễn xét xử án ly hôn ngày càng gia tăng, trong đó có nguyên nhân do vợ hoặc chồng ngoại tình. Về pháp lý và đạo lý đều cần khẳng định rằng vợ chồng phải chung thủy, yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng tổ ấm bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã khẳng định mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
Ngoại tình: Nguyên nhân thứ hai dẫn đến ly hôn Theo thống kê của ngành tòa án, những năm gần đây, số lượng các vụ ly hôn ở Việt Nam tăng nhanh. Nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ thì năm 2005 đã tăng lên 65.929 vụ; đến năm 2010, con số này lên tới 126.325 vụ... Người vợ đứng đơn ly hôn gấp hai lần so với người chồng. Số năm sống trung bình trước khi ly hôn của các cặp vợ chồng là 9,4 năm, riêng ở các khu vực nội thành của các thành phố lớn chỉ tám năm. Điều đáng báo động là tình trạng ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ đang có dấu hiệu gia tăng, số vụ ly hôn năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước. Theo một cuộc điều tra nghiên cứu quốc gia về gia đình của Viện Nghiên cứu gia đình và giới (Viện Khoa học xã hội Việt Nam), về nguyên nhân dẫn đến ly hôn thì mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu (27,7\%), tiếp theo là ngoại tình (25,9\%), nguyên nhân kinh tế (13\%), bạo hành gia đình (6,7\%), lý do sức khỏe (2,2\%) và do xa nhau lâu ngày (1,3\%). Hiện tượng ly hôn đang tăng lên chủ yếu là do áp lực về kinh tế, khác biệt về lối sống và sự không chung thủy của cả hai giới... Theo báo Pháp Luật TP.HCM |
Luật gia Đồng Xuân Thuận
[mecloud]cYhYr9afQn[/mecloud]