Hôm nay (5/3), Bộ GD&ĐT tổ chức hội thảo góp ý dự thảo đề án quốc gia "Từng bước đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045".
Khẳng định triển khai đề án "Từng bước đưa Tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học" là cơ hội lớn đối với ngành giáo dục nói chung, người dạy và học tiếng Anh nói riêng, Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng cho rằng, kỹ năng ngoại ngữ, đặc biệt tiếng Anh trở thành công cụ hết sức quan trọng để hội nhập sâu, rộng với thế giới, tạo nên thế hệ công dân toàn cầu.
Tại hội thảo, Thứ trưởng đề nghị các ý kiến tập trung nội dung trọng tâm là quan điểm; các mục tiêu tổng quát, cụ thể; lộ trình, kết quả triển khai; đồng bộ các giải pháp; tiêu chí, nguyên tắc để xác định tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường. Cùng với đó là các yêu cầu về chương trình, đội ngũ, cơ sở vật chất… nhằm hỗ trợ triển khai dạy, học tiếng Anh trong nhà trường.
Lãnh đạo ngành giáo dục cũng nhận thấy những hạn chế trong việc đưa tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai đó là sự khác biệt giữa các vùng miền, còn nhiều vùng khó khăn, dân số ít,…
Việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai giúp học sinh hội nhập với thế giới.
Từ đó cho rằng chúng ta cần học tập kinh nghiệm quốc tế để lựa chọn phù hợp với đặc điểm giáo dục Việt Nam; bảo đảm hiệu quả trong sử dụng nguồn lực, đào tạo giáo viên, hợp tác quốc tế, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thu hút xã hội hóa để triển khai đề án sớm hơn, nhanh, chất lượng, hiệu quả hơn.
Tại hội thảo, ông Đỗ Tuấn Minh - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ, ngay sau khi Kết luận 91-KL/TW được ban hành, nhà trường đã họp và đưa nội dung "từng bước đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học" vào Nghị quyết, quyết định của trường.
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội đồng thời, biên soạn bộ tài liệu hướng dẫn cách thức để đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Trong đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm của không chỉ người dạy và người học, mà còn có các đối tượng liên quan; hướng dẫn lồng ghép đưa tiếng Anh vào trường học theo từng cấp độ, đối với từng môn học khác nhau.
Ông Đỗ Tuấn Minh cho rằng, để nâng cao hiệu quả của Đề án, phải tiếp cận tiếng Anh trở thành văn hóa, thành môi trường của nhà trường; cần kế thừa những nội dung đã làm được của đề án trước đó. Đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm; tạo không gian cho các địa phương, các cơ sở giáo dục, tùy theo điều kiện của mình để triển khai công việc phù hợp hiệu quả, đúng vai trò, đúng trách nhiệm.
Các chuyên gia tham gia góp ý tại hội thảo.
Còn theo ông Nguyễn Văn Trào - Phó hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đề án cần làm rõ vai trò, quy hoạch hệ thống giáo dục đại học, vai trò của các trường sư phạm trọng điểm, trong đó có xây dựng các chương trình và tài liệu để bồi dưỡng cho giáo viên, sinh viên sư phạm. Cùng với đó, tăng cường cơ sở vật chất với những trường đào tạo giáo viên; có kế hoạch cụ thể về chỉ tiêu tuyển sinh, kinh phí hỗ trợ giáo viên, sinh viên, các chuyên gia phối hợp cùng trong các ngành đào tạo tiếng Anh.
Bày tỏ vui mừng vì đề án được xây dựng, thể hiện sự chú trọng rất lớn của Chính phủ, TS.Nguyễn Thanh Bình - Trường Đại học Sư phạm TP.HCM cho rằng dù quá trình thực hiện dài hạn, đề án cần có lộ trình cụ thể ngay từ sớm để triển khai các cấp độ khác nhau theo từng bối cảnh của trường, địa phương, cũng như chuẩn bị nguồn lực, các điều kiện cần thiết để thực hiện.
Trong đó, cân nhắc khả năng tiếp cận của học sinh ở vùng sâu vùng xa, tỉ lệ đạt chuẩn của giáo viên ở các tỉnh thành khác nhau; huy động xã hội hóa và các nguồn lực khác nhau để phục vụ việc tư vấn, xây dựng công cụ hỗ trợ triển khai hiệu quả.
Về phía giáo viên cô Lê Thị Thanh Huyền - Trường Tiểu học Châu Sơn, Ba Vì, Hà Nội bày tỏ mong muốn được đào tạo, bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy bộ môn bằng tiếng Anh. Đặc biệt, tiếp tục được đầu tư các trang thiết bị nghe nhìn hiện đại trong phòng học Ngoại ngữ, được bố trí định mức tiết dạy đặc thù phù hợp với giáo viên Ngoại ngữ.