Tài xế sát hại hại nữ giám thị, phi tang thi thể xuống sông ở Hà Tĩnh gửi đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Tiến cho rằng hình phạt nặng nên mong được tha "tội chết", để có cơ hội chuộc lỗi lầm.
Theo thông tin được đăng tải trên báo Vnexpress, TAND tỉnh Hà Tĩnh cho biết đã chuyển đơn kháng cáo của Nguyễn Văn Tiến (27 tuổi, nghi phạm bị kết án tử hình về 3 tội Giết người, Cướp tài sản và Dâm ô đối với trẻ em) lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội để xử lý theo thẩm quyền.
Theo lãnh đạo TAND Hà Tĩnh, Tiến cho rằng hình phạt nặng nên mong được tha "tội chết".
Báo Tri thức trực tuyến trích dẫn hồ sơ vụ án thể hiện, tối 3/7/2016, chị O. (23 tuổi, quê Hà Nam, sinh viên năm cuối Đại học Sư phạm Huế) ra Hà Tĩnh làm giám thị coi thi THPT Quốc gia.
Bị cáo Nguyễn Văn Tiến bị tuyên án tử hình - Ảnh: An ninh thủ đô |
Sau ngày thi cuối, O. gọi taxi do Tiến lái chở đi nhà thờ và ghé thăm một nam sinh. Trên đường về, Tiến chở chị O. ra cánh đồng phía sau xã Thạch Trung (huyện Thạch Hà) rồi bóp cổ nạn nhân đến chết, lấy 250.000 đồng. Tiến vứt xác nạn nhân vứt xuống cầu gần đó để phi tang.
Hai ngày sau, cảnh sát bắt Tiến. Từ lời khai tên này nhà chức trách tìm thấy xác nữ giám thị.
Quá trình điều tra, cảnh sát xác định tháng 6/2016, Tiến điều khiển taxi chở bé gái 11 tuổi từ TP Hà Tĩnh về xã Thạch Khê (Thạch Hà). Trên quãng đường di chuyển, anh ta sờ vào chỗ nhạy của cô bé. Sự việc sau đó bị người thân bé gái tố cáo đến công an.
Trong phiên sơ thẩm ngày 26/4, TAND Hà Tĩnh tuyên Tiến án tử hình về tội Giết người, 4 năm tù về tội Cướp tài sản, 18 tháng tù do Dâm ô trẻ em. Tổng mức phạt, bị cáo lĩnh án tử hình.
Điều 93. Tội giết người (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009): 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều người; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Điều 133. Tội cướp tài sản 1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
(Tổng hợp)