Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết 68 là "cú hích" thúc đẩy một hệ sinh thái kinh doanh công bằng, hiệu quả

  • Hiếu Nguyễn
(DS&PL) -

Theo PGS.TS Ngô Trí Long, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Theo các chuyên gia, đây được coi là Nghị quyết mang tính bước ngoặt, làm thay đổi chất lượng khu vực kinh tế tư nhân, đáp ứng nhu cầu mục tiêu phát triển kinh tế đất nước.

Phóng viên Đời sống & Pháp luật đã có cuộc trao đổi với Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) về những định hướng đột phá trong Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân.

Nâng cao năng lực cạnh tranh nội tại, chuyển đổi mô hình tăng trưởng

ĐS&PL: Xin ông đánh giá về bối cảnh ra đời của Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị trong giai đoạn hiện nay?

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị ra đời trong một bối cảnh đặc biệt quan trọng, vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam.

Thứ nhất, bối cảnh kinh tế thế giới đang chuyển dịch sâu sắc sau đại dịch COVID-19, với những biến động địa chính trị, xu hướng bảo hộ thương mại, đứt gãy chuỗi cung ứng và áp lực chuyển đổi xanh, số. Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp bách phải nâng cao năng lực cạnh tranh nội tại, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đồng thời thích ứng nhanh với những tiêu chuẩn mới về môi trường, công nghệ và lao động toàn cầu.

Thứ hai, nền kinh tế trong nước tuy phục hồi khá nhanh sau đại dịch, nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức mang tính cơ cấu như năng suất lao động thấp, khu vực kinh tế tư nhân phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chi phí kinh doanh còn cao, và mức độ tự chủ của doanh nghiệp còn hạn chế.

Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính).

Báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2024 cho thấy năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp hơn khoảng 50–60% so với các nước trong khu vực như Thái Lan hay Malaysia.

Thứ ba, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP có xu hướng chững lại ở mức 40–43% trong giai đoạn 2020–2024 (theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư), phản ánh rõ ràng sự cần thiết phải có một “cú hích chính sách” để tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, vốn, đổi mới sáng tạo và tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp tư nhân.

Trong bối cảnh đó, việc Bộ Chính trị lần đầu tiên ban hành một nghị quyết riêng biệt, có tính tổng thể và lâu dài về phát triển khu vực kinh tế tư nhân thể hiện rõ quyết tâm chính trị và tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc “cơ cấu lại động lực tăng trưởng”.

Đây không chỉ là bước chuyển về tư duy quản trị quốc gia, mà còn là sự khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2045. Có thể nói, Nghị quyết 68-NQ/TW là một chủ trương có tính bước ngoặt, không chỉ nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt mà còn tạo ra nền tảng thể chế mới, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển thực chất, bền vững, đóng góp hiệu quả hơn cho tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô

Nâng tầm vai trò kinh tế tư nhân, đưa ra các mục tiêu cụ thể

ĐS&PL: Xin ông cho biết Nghị quyết 68 có những điểm mới gì so với các nghị quyết, chính sách trước đây về phát triển kinh tế tư nhân?

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết số 68-NQ/TW, được Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

So với Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017, Nghị quyết 68 thể hiện những điểm mới nổi bật sau: Khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân.

Nếu như Nghị quyết 10/2017 xác định kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng" thì Nghị quyết 68 nâng tầm vai trò này lên thành "một động lực quan trọng nhất" của nền kinh tế quốc gia. Điều này thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức và chính sách, đặt kinh tế tư nhân vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. 

Nghị quyết số 68-NQ/TW, được Bộ Chính trị ban hành ngày 4/5/2025, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

Nghị quyết 68 đưa ra các mục tiêu cụ thể cho kinh tế tư nhân đến năm 2030, bao gồm: Đóng góp khoảng 55-58% GDP. Chiếm khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước. Giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động.Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm. Phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.

Nghị quyết 68 nhấn mạnh việc cải cách thể chế để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bao gồm: Bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng. Ưu tiên xử lý khắc phục hậu quả kinh tế trước khi áp dụng các biện pháp xử lý hình sự đối với doanh nghiệp và doanh nhân.

Đồng thời, phân biệt rõ giữa trách nhiệm của cá nhân và pháp nhân trong trường hợp vi phạm, tránh ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Khuyến khích đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nghị quyết khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, thông qua các chính sách ưu đãi như miễn, giảm thuế, khấu trừ chi phí R&D, lập quỹ phát triển công nghệ và thử nghiệm chính sách (sandbox) công nghệ. 

Nghị quyết 68 đề xuất các cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hình thành các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng; tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, tận dụng lợi thế từ khu vực FDI để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. 

Theo PGS.TS Ngô Trí Long, Nghị quyết 68 đã thể hiện quyết tâm chính trị cao trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và mang tính chiến lược lâu dài.

Nghị quyết cũng đề xuất các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh cá thể, như tối giản hóa các quy định về tài chính, kế toán; cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý; cung cấp nền tảng số miễn phí để ứng dụng công nghệ; và bỏ hình thức thuế khoán.

Tôi cho rằng Nghị quyết 68 đã thể hiện quyết tâm chính trị cao trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và mang tính chiến lược lâu dài. Điều này được thể hiện qua việc thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Nghị quyết do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban và Phó Thủ tướng làm Phó Trưởng Ban Thường trực. 

Tóm lại, theo tôi Nghị quyết 68 không chỉ nâng tầm vai trò của kinh tế tư nhân mà còn đưa ra các mục tiêu cụ thể, cải cách thể chế, khuyến khích đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

Bước ngoặt đúng thời điểm

ĐS&PL: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị nhấn mạnh rất cụ thể việc xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, chấm dứt tình trạng thanh, kiểm tra chồng chéo. Theo ông, những những yêu cầu này sẽ tạo động lực như thế nào tới sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân?

PGS.TS Ngô Trí Long: Một trong những điểm nhấn nổi bật của Nghị quyết 68 là yêu cầu “xóa bỏ cơ chế xin – cho”, “chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm”, “chấm dứt thanh – kiểm tra chồng chéo”. Đây là bước ngoặt thể chế quan trọng cho khu vực kinh tế tư nhân .

Những chỉ đạo trúng và đúng, không chỉ về kỹ thuật quản trị mà còn là lời đáp mạnh mẽ cho yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh mới. Thể chế xin – cho là trở ngại lớn nhất của tự do kinh doanh.

Mặc dù Luật Doanh nghiệp đã quy định quyền tự do kinh doanh là quyền hiến định, nhưng trên thực tế, cơ chế “xin – cho” vẫn chi phối nhiều lĩnh vực.

Theo VCCI, 45% doanh nghiệp phản ánh phải “quan hệ” với cơ quan chức năng để được chấp thuận đầu tư, cấp phép xây dựng hay tiếp cận đất đai. Chỉ số môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (Doing Business – bản cuối năm 2020) xếp hạng Việt Nam ở vị trí 70/190, thấp hơn nhiều nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan.

Nghị quyết 68 khẳng định vai trò của doanh nhân là những người "chiến sĩ trên mặt trận kinh tế".

Cơ chế “tiền kiểm” khiến doanh nghiệp phải “xin phép để được làm” thay vì “làm nếu không bị cấm”, dẫn đến mất thời gian, chi phí và tiềm ẩn rủi ro nhũng nhiễu.

Thanh tra, kiểm tra chồng chéo – gánh nặng vô hình tiếp diễn đối với doanh nghiệp. Tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo tiếp tục là một rào cản lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Mặc dù Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trước đây) đã điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2024 để tránh trùng lặp với các cơ quan khác, như việc không tiến hành một số cuộc thanh tra để tránh chồng chéo với kế hoạch của Thanh tra Chính phủ, tình trạng doanh nghiệp bị thanh tra, kiểm tra nhiều lần trong năm vẫn chưa được giải quyết triệt để. Hệ quả của việc thanh tra, kiểm tra chồng chéo không chỉ làm tăng chi phí tuân thủ pháp luật cho doanh nghiệp mà còn tạo ra tâm lý e ngại, phòng thủ trong đầu tư và đổi mới.

Doanh nghiệp thường trì hoãn các quyết định mở rộng sản xuất hoặc đầu tư công nghệ vì lo ngại bị “soi xét” hoặc bị làm khó bởi các đợt kiểm tra bất ngờ và thiếu nhất quán.

Để khắc phục tình trạng này, các cơ quan chức năng cần tiếp tục nỗ lực trong việc cải cách phương thức quản lý nhà nước, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, giảm tần suất và hợp nhất các đợt thanh tra, kiểm tra. Việc này không chỉ giúp giảm gánh nặng cho doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ phát triển bền vững và đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc gia.

Yêu cầu “chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm” nếu được thực thi đúng cách sẽ có tác động lớn, bao gồm giảm chi phí tuân thủ. Theo tính toán của VCCI, chi phí tuân thủ hành chính có thể giảm 20–30% nếu các quy định tiền kiểm được chuyển hóa thành tiêu chí hậu kiểm chuẩn hóa. Đồng thời, doanh nghiệp có thể tập trung nguồn lực cho sản xuất.

Trong bối cảnh nền kinh tế đang cần kích hoạt các động lực tăng trưởng mới, cải cách thể chế theo hướng xóa "xin – cho", hậu kiểm minh bạch, kiểm tra không chồng chéo” sẽ tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển thực chất – bền vững – có đóng góp lớn hơn cho quốc kế dân sinh.

Để Nghị quyết 68 thực sự đi vào cuộc sống, cần đồng thời cải cách hệ thống thực thi, bao gồm Số hóa và đồng bộ hóa dữ liệu thanh – kiểm tra, Thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia dùng chung, từ đó loại bỏ trùng lặp, phát hiện lạm quyền. Đồng thời, rà soát và quy định rõ tiêu chí hậu kiểm, tránh “hậu kiểm biến tướng” thành “tiền kiểm gián tiếp”, cần ban hành danh mục kiểm tra minh bạch, có sự giám sát của cộng đồng doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, cần cải thiện năng lực đội ngũ thực thi công vụ. Công chức kiểm tra cần được đào tạo về nguyên tắc hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ, thay vì chỉ nhằm phát hiện và xử phạt vi phạm. Đồng thời, gắn cải cách này với đánh giá cải thiện PCI, PAPI (Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh -PCI; Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh- PAPI - PV) qua đó tạo động lực cho các địa phương thực thi thực chất, cạnh tranh lành mạnh về cải thiện môi trường kinh doanh.

Tôi cho rằng việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68 là một bước ngoặt chính sách thể chế đúng thời điểm. Trong bối cảnh nền kinh tế đang cần kích hoạt các động lực tăng trưởng mới, cải cách thể chế theo hướng xóa "xin – cho", hậu kiểm minh bạch, kiểm tra không chồng chéo” sẽ tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân phát triển thực chất – bền vững – có đóng góp lớn hơn cho quốc kế dân sinh.

Động lực vượt qua rào cản để "dám nghĩ, dám làm"

ĐS&PL: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị cũng nhấn việc ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, dân sự và kinh tế thay vì hình sự, tạo điều kiện cho doanh nghiệp chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Theo ông, quy định đột phá này có ý nghĩa như thế nào?

PGS.TS Ngô Trí Long: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam. Một trong những điểm đột phá đáng chú ý là chủ trương ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, dân sự và kinh tế thay vì hình sự đối với các sai phạm trong lĩnh vực kinh tế.

Điều này không chỉ mang ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn tác động sâu sắc đến tâm lý và hành động của cộng đồng doanh nghiệp, giúp họ vượt qua rào cản "không dám nghĩ, không dám làm". 

Trước đây, nhiều doanh nghiệp lo ngại rằng những sai sót trong hoạt động kinh doanh có thể dẫn đến hậu quả hình sự, gây tâm lý e ngại và cản trở sự đổi mới, sáng tạo. Nghị quyết 68 đã thay đổi quan điểm này bằng cách nhấn mạnh việc xử lý sai phạm kinh tế chủ yếu thông qua các biện pháp hành chính, dân sự và kinh tế, chỉ áp dụng hình sự trong những trường hợp nghiêm trọng.

Điều này giúp doanh nghiệp cảm thấy an tâm hơn khi triển khai các ý tưởng kinh doanh mới, từ đó thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.

Với việc giảm thiểu nguy cơ bị hình sự hóa, doanh nghiệp có động lực mạnh mẽ hơn để đầu tư, mở rộng sản xuất và cải tiến công nghệ.

Với việc giảm thiểu nguy cơ bị hình sự hóa, doanh nghiệp có động lực mạnh mẽ hơn để đầu tư, mở rộng sản xuất và cải tiến công nghệ. Nghị quyết cũng đề cập đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực như vốn, đất đai và nhân lực chất lượng cao, giúp họ phát triển bền vững và hiệu quả hơn. 

Theo Nghị quyết 68, mục tiêu đến năm 2030 là có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 55–58% GDP, khoảng 35–40% tổng thu ngân sách nhà nước và giải quyết việc làm cho khoảng 84–85% tổng số lao động.Đến năm 2045, phấn đấu có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động, đóng góp trên 60% GDP.

Nghị quyết 68 không chỉ là một văn bản chính sách mà còn là một thông điệp mạnh mẽ từ Đảng và Nhà nước, khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Việc ưu tiên xử lý hành chính, dân sự và kinh tế thay vì hình sự là một bước tiến lớn trong cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và thuận lợi, từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân.

Tóm lại, tôi cho rằng Nghị quyết 68-NQ/TW đã tạo ra một cú hích quan trọng, giúp doanh nghiệp vượt qua rào cản tâm lý "không dám nghĩ, không dám làm", mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển năng động và bền vững của kinh tế tư nhân tại Việt Nam.

Khơi thông tiềm năng đổi mới sáng tạo trong xã hội

ĐS&PL: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị  đề ra nhiều nhóm giải pháp. Theo ông, đâu là giải pháp then chốt, mang tính đột phá nhất cần tập trung triển khai? Ông tâm đắc nhất với nhóm nhiệm vụ, giải pháp nào trong Nghị quyết?

PGS.TS Ngô Trí Long: Theo tôi, giải pháp mang tính đột phá nhất của Nghị quyết 68-NQ/TW chính là bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh và môi trường cạnh tranh lành mạnh cho khu vực kinh tế tư nhân – điều được xác định là nền tảng để khơi dậy tinh thần doanh nhân và giải phóng các nguồn lực xã hội. Tính đột phá thể hiện ở ba khía cạnh.

Thứ nhất, Nghị quyết nhấn mạnh xóa bỏ triệt để cơ chế “xin – cho”, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, chấm dứt tình trạng thanh – kiểm tra chồng chéo. Đây là yếu tố cốt lõi nhằm thay đổi tư duy quản lý nhà nước, từ “quản lý – cấp phép” sang “kiến tạo – phục vụ”.

Thứ hai, bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh và quyền cạnh tranh bình đẳng – lần đầu tiên được khẳng định mạnh mẽ trong một nghị quyết Trung ương, khắc phục thực trạng “doanh nghiệp không dám nghĩ, không dám làm” vì sợ rủi ro pháp lý và hình sự hóa quan hệ kinh tế.

Thứ ba, ưu tiên xử lý sai phạm doanh nghiệp bằng biện pháp hành chính, dân sự thay vì hình sự, giúp doanh nghiệp có cơ hội khắc phục, giảm thiểu tâm lý e ngại đầu tư và đổi mới.

Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024, khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng góp gần 46% GDP, 30% tổng thu ngân sách, và sử dụng hơn 85% lao động cả nước. Tuy nhiên, hơn 70% doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp khó khăn do thủ tục pháp lý, tiếp cận vốn và rủi ro bị xử lý hình sự hóa khi gặp sai sót trong điều hành.

Bên cạnh bảo vệ quyền tài sản, tôi đặc biệt tâm đắc với nhóm giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, gắn với cải cách hành chính và chuyển đổi số trong quản lý nhà nước. Vì nếu thể chế có đổi mới nhưng khâu thực thi còn trì trệ, thiếu trách nhiệm và minh bạch thì mọi chủ trương đều khó đi vào cuộc sống.

Một số điểm nổi bật của Nghị quyết 68 bao gồm đơn giản hóa thủ tục hành chính, chuẩn hóa quy trình hậu kiểm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào quản lý doanh nghiệp, giảm tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ và doanh nghiệp – từ đó giảm nguy cơ nhũng nhiễu, tiêu cực.

Theo PGS.TS Ngô Trí Long, nếu thực hiện đồng bộ, quyết liệt và nhất quán, các giải pháp của Nghị quyết 68 sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp “dám nghĩ, dám làm” mà còn thúc đẩy một hệ sinh thái kinh doanh công bằng – hiệu quả – đổi mới sáng tạo.

Thiết lập cơ chế phản hồi, giám sát và đánh giá độc lập đối với cán bộ thực thi chính sách, tránh tình trạng “trên rải thảm, dưới rải đinh”. Thúc đẩy mô hình hợp tác công – tư (PPP) nhằm huy động các nguồn lực từ khu vực tư nhân cho đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, giáo dục và chuyển đổi số.

Như vậy, Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ đánh dấu sự chuyển hướng tư duy phát triển kinh tế tư nhân từ “một động lực quan trọng” (Nghị quyết 10-NQ/TW/2017) sang “động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế, mà còn thể hiện cam kết đổi mới phương thức quản lý nhà nước, tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và khơi thông tiềm năng đổi mới sáng tạo trong xã hội.

Theo tôi, nếu thực hiện đồng bộ, quyết liệt và nhất quán, các giải pháp của Nghị quyết 68 sẽ không chỉ giúp doanh nghiệp “dám nghĩ, dám làm” mà còn thúc đẩy một hệ sinh thái kinh doanh công bằng – hiệu quả – đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và tự chủ của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới.

ĐS&PL: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Tin nổi bật