Chỉ còn hơn 1 tuần nữa, các học sinh sẽ chính thức bước vào kỳ thi tốt nghiệp THPT 2025. Trong đó, môn Ngữ văn với nhiều đổi mới theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 được xem là thử thách không nhỏ đối với thí sinh. Vậy làm thế nào để ôn tập môn Ngữ văn hiệu quả, đặc biệt là ở giai đoạn “nước rút”?
Báo Sức Khỏe & Đời Sống dẫn thông tin từ TS. Trịnh Thu Tuyết - nguyên giáo viên Ngữ văn tại Trường THPT Chuyên Chu Văn An (Hà Nội) cho hay, chương trình GDPT 2018 với định hướng phát triển năng lực và phẩm chất đã mang đến những thay đổi cơ bản trong nội dung, phương pháp dạy học, đặc biệt là công tác kiểm tra, đánh giá.
Đề thi Ngữ văn năm nay sẽ sử dụng ngữ liệu đọc hiểu và nghị luận là các tác phẩm văn học ngoài chương trình SGK. Điều này đòi hỏi thí sinh phải làm chủ hệ thống kiến thức thể loại và tiếng Việt, cùng với kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ, bàn luận.
Khi đã có nền tảng vững chắc, các thí sinh có thể độc lập khám phá, cảm thụ hay bàn luận về giá trị nội dung/nghệ thuật của bất kỳ tác phẩm văn học nào theo yêu cầu của đề thi.
TS. Trịnh Thu Tuyết - nguyên giáo viên Ngữ văn tại Trường THPT Chuyên Chu Văn An (Hà Nội). Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống
Trong giai đoạn “nước rút”, TS. Trịnh Thu Tuyết khuyên thí sinh nên tự kiểm tra lại hệ thống kiến thức và kỹ năng để đáp ứng từng kiểu câu hỏi theo cấu trúc và định dạng đề thi minh họa của Bộ GD&ĐT. Đề thi gồm hai phần chính: Đọc hiểu và Viết (gồm câu viết đoạn văn và câu viết bài văn).
Ngữ liệu trong phần Đọc hiểu cũng như nội dung nghị luận trong phần Viết có thể liên quan tới ba loại văn bản: Văn bản văn học, Văn bản nghị luận, Văn bản thông tin. Do đó, thí sinh cần ôn tập lại toàn bộ kiến thức thể loại cơ bản để đáp ứng yêu cầu của đề.
Các kiến thức thể loại cơ bản cần chú ý bao gồm:
- Truyện kể: Ngôi kể, người kể chuyện, điểm nhìn.
- Thơ trữ tình: Nhân vật trữ tình, thể thơ, hình ảnh thơ.
- Văn nghị luận: Luận đề, luận điểm, các yếu tố bổ trợ (thuyết minh, miêu tả), các thao tác lập luận (chứng minh, bình luận, bác bỏ).
- Văn bản thông tin: Sa-pô, các phương tiện phi ngôn ngữ, dữ liệu, trình tự sắp xếp thông tin.
Cũng chia sẻ về các thể loại văn, thầy Phan Thế Hoài - giáo viên Ngữ văn tại TP.HCM cho biết, học sinh thường gặp nhiều khó khăn khi đọc hiểu thơ và truyện ngắn, theo Người Đưa Tin.
Với ngữ liệu thơ, cần chú ý các dạng câu hỏi nhận biết, thông hiểu và vận dụng. Học sinh nên nắm rõ đặc điểm của từng thể thơ như số tiếng mỗi dòng, số câu mỗi khổ để xác định chính xác (ví dụ: lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ, tự do...). Đồng thời, cần đọc kỹ bài thơ để tìm đúng từ ngữ, hình ảnh phù hợp với yêu cầu của đề.
Đề có thể yêu cầu phân tích tác dụng của biện pháp tu từ, học sinh cần làm rõ cảm xúc mà biện pháp đó gợi lên và cách nó thể hiện tâm tư, tình cảm của tác giả hoặc nhân vật trữ tình.
Việc sử dụng lời tâm sự như “anh”, “em” tạo cảm giác gần gũi, chia sẻ, giúp người đọc đồng cảm với cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Học sinh cần nắm được diễn biến cảm xúc của nhân vật trữ tình trong suốt bài thơ, có thể là sự chuyển biến từ buồn sang vui, từ thất vọng sang hy vọng,… Từ đó, liên hệ thực tế để rút ra bài học hoặc nhận định ngắn gọn về một vấn đề cuộc sống (khoảng 5–7 dòng).
Với ngữ liệu truyện, học sinh cần xác định được ngôi kể: ngôi thứ nhất (người kể xưng “tôi”, tham gia vào truyện) hoặc ngôi thứ ba (người kể giấu mình). Đồng thời, xác định nhân vật chính – người xuất hiện nhiều, có ảnh hưởng lớn đến cốt truyện và là trung tâm thể hiện nội dung, tư tưởng tác phẩm.
Ngoài ra, kiến thức về Tiếng Việt cũng vô cùng quan trọng, đặc biệt là cách giải nghĩa từ ngữ (nhất là từ Hán Việt) và các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, đối, điệp, nói mỉa, nghịch ngữ, liệt kê, cũng như các biện pháp tăng tính phủ định, khẳng định.
Khi đã trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng, thí sinh cần giữ tâm lý bình tĩnh, tự tin để giải quyết từng yêu cầu của đề thi.
Thầy Phan Thế Hoài - giáo viên Ngữ văn tại TP.HCM. Ảnh: Người Đưa Tin
Thông tin trên báo Sức Khỏe & Đời Sống, phần Đọc hiểu bao gồm một ngữ liệu ngoài sách giáo khoa và 5 câu hỏi được sắp xếp theo ba cấp độ nhận thức: nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Thí sinh cần nhận diện dấu hiệu của từng kiểu câu hỏi để có phương pháp trả lời phù hợp, tránh trả lời thừa hoặc thiếu ý.
- Câu hỏi thông hiểu: Thường yêu cầu giải thích khái niệm, quan niệm; nêu cách hiểu ý thơ, lời thoại; phân tích giá trị của biện pháp tu từ, tác dụng của việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh. Thí sinh cần giải thích nghĩa đen/nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ của từ ngữ, hình ảnh hoặc căn cứ vào nội hàm ý nghĩa để giải thích thấu đáo, sâu sắc, thuyết phục.
- Câu hỏi vận dụng: Thường yêu cầu thể hiện cảm xúc, suy nghĩ và quan điểm cá nhân trước một nhận định/thông điệp/vấn đề.
- Dạng câu hỏi yêu cầu thể hiện cảm xúc, suy nghĩ: Trả lời ngắn gọn, chân thành, trung thực, tránh khuôn mẫu, hô khẩu hiệu.
- Dạng câu hỏi "Anh/chị có đồng tình...?/ Vì sao": Xác định đúng suy nghĩ, nhận thức của bản thân để luận bàn thấu đáo, chặt chẽ. Quan trọng nhất là giải thích rõ ràng "Vì sao?" với lập luận chặt chẽ và thuyết phục, dù đồng tình hay không đồng tình.
Đối với phần Viết, phần này bao gồm đoạn văn và bài văn, cả nghị luận xã hội và nghị luận văn học.
- Đoạn văn nghị luận xã hội: Về nội dung, chỉ nghị luận một khía cạnh, một bình diện của vấn đề (nguyên nhân/ý nghĩa/hậu quả/giải pháp...). Tuyệt đối không biến đoạn văn thành bài văn thu nhỏ. Về hình thức, viết đúng cấu trúc đoạn, đúng dung lượng theo yêu cầu của đề.
- Đoạn văn nghị luận văn học: Có thể yêu cầu trình bày cảm nhận hoặc phân tích một giá trị nội dung hoặc nghệ thuật.
Thí sinh cần nhớ giá trị nội dung luôn được thể hiện thông qua đặc sắc của hình thức nghệ thuật; giá trị nghệ thuật chính là khả năng biểu hiện sâu sắc, tinh tế nội dung. Phân tích phải đi sâu vào sự kết hợp giữa nội dung và hình thức.
Thầy Phan Thế Hoài chia sẻ, thông thường yêu cầu chung của đoạn văn 200 chữ, thí sinh cần viết đúng dung lượng khoảng 150-300 chữ, tức là không viết dài quá cũng không ngắn quá.
Khi viết đoạn văn nghị luận, học sinh cần đảm bảo bố cục rõ ràng gồm mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn theo hình thức tổng – phân – hợp. Nội dung phải bám sát một vấn đề duy nhất, tránh lan man, dàn trải.
Cùng với đó, diễn đạt cần chính xác về chính tả, ngữ pháp, dùng từ hợp lý và có sự liên kết chặt chẽ giữa các câu. Những đoạn văn thể hiện tư duy sâu sắc, diễn đạt sáng tạo sẽ dễ tạo ấn tượng và đạt điểm cao.
Nếu đề yêu cầu nghị luận về nhân vật trữ tình trong thơ, học sinh nên giới thiệu ngắn gọn đoạn thơ và nhân vật. Phần thân đoạn tập trung phân tích cảm xúc, suy nghĩ hoặc sự biến chuyển tâm trạng qua từ ngữ, hình ảnh, câu thơ tiêu biểu, đồng thời lý giải vì sao những chi tiết ấy thể hiện được điều đó. Kết đoạn khẳng định lại vấn đề và có thể mở rộng bằng một bài học hoặc giá trị nhân văn.
Trường hợp đề yêu cầu phân tích nghệ thuật thơ, cần làm rõ các yếu tố như từ ngữ, hình ảnh, thể thơ, nhịp điệu, biện pháp tu từ và cấu tứ.
Với đoạn văn nghị luận về nhân vật trong truyện, cần phân tích lời nói, hành động, suy nghĩ, ngoại hình hoặc sự thay đổi của nhân vật, gắn chặt với chủ đề truyện để làm nổi bật tư tưởng và thông điệp của tác giả.
Thí sinh dự thi môn Ngữ văn tại Kỳ thi THPT năm 2024 ở TP.HCM. Ảnh: Người Đưa Tin
- Bài văn nghị luận xã hội:
Theo thầy Phan Thế Hoài, các học sinh cần chú ý dung lượng (khoảng 500-800 chữ); bố cục; luận điểm; lý lẽ, bằng chứng; mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác và liên hệ từ thực tiễn cuộc sống từ góc nhìn của người trẻ.
Khi mở rộng vấn đề trong bài nghị luận xã hội, nhất là với những chủ đề liên quan đến tuổi trẻ, học sinh cần chú ý đến việc phê phán những hành vi hoặc tư tưởng tiêu cực. Tuy nhiên, phê phán không phải là chỉ trích nặng nề, mà là đánh giá khách quan để từ đó rút ra bài học và hướng đi đúng đắn.
Bài viết nên gắn với thực tế, nêu dẫn chứng cụ thể từ những vấn đề đang được quan tâm như: sống ảo trên mạng xã hội, thờ ơ vô cảm, lối sống thực dụng, hay lý tưởng sống, tinh thần sáng tạo, lòng yêu nước, bản sắc văn hoá…
Đặc biệt, cần tránh lối viết hô hào sáo rỗng hoặc phiến diện, cực đoan. Việc quy chụp như “tất cả học sinh hiện nay đều lười biếng” sẽ làm giảm sức thuyết phục. Thay vào đó, nên chọn cách diễn đạt tỉnh táo, cân bằng để thể hiện quan điểm rõ ràng mà vẫn sâu sắc.
Cấu trúc gợi ý: Giải thích khái niệm/quan niệm; bàn luận (biểu hiện, nguyên nhân, đánh giá, giải pháp); mở rộng vấn đề, trao đổi với quan điểm trái chiều hoặc ý kiến khác.
- Bài văn nghị luận văn học:
+ Mở bài: Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận.
+ Thân bài: Nêu khái quát về vai trò, vị trí của nhân vật/đoạn trích trong chủ đề chung hoặc cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Sau đó, tập trung vào nội dung cảm nhận/phân tích nhân vật/đoạn trích theo yêu cầu của đề.
Cần lưu ý việc triển khai hệ thống ý phù hợp với vấn đề nghị luận chung, quá trình phân tích, cảm thụ phải bám sát đặc trưng thể loại. Quan trọng là phân tích giá trị nội dung thông qua những đặc sắc nghệ thuật chuyển tải nội dung, và phân tích giá trị nghệ thuật qua vai trò thể hiện sâu sắc, tinh tế nội dung.
+ Kết bài: Khẳng định giá trị nội dung/nghệ thuật vừa phân tích, khẳng định tài năng và sự đóng góp của tác giả, tác phẩm đối với văn học và cuộc sống con người.
Lưu ý, dù là đoạn văn hay bài văn, nghị luận xã hội hay nghị luận văn học, điều quan trọng nhất là xác định đúng yêu cầu nghị luận. Sau đó, các học sinh nên phác sơ lược hướng triển khai nội dung để quá trình viết không bị lan man hoặc sơ sài, thiếu ý.
Nếu nghị luận xã hội đòi hỏi sự thể hiện cái tôi sắc sảo, bản lĩnh, trung thực, thì nghị luận văn học rất cần khả năng cảm nhận tinh tế, phân tích sâu sắc và tình cảm chân thành.