Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Loạt quy định mới với lao động nữ của Bộ luật Lao động năm 2019

(DS&PL) -

Một số quy định đối với lao động nữ đã có những sửa đổi, bổ sung, để chăm sóc sức khỏe, phòng chống quấy rối tình dục, bảo vệ thai sản và nuôi con nhỏ,... nhằm bảo đảm quyền lợi cho lao động nữ.

Bộ luật Lao động 2019 và Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.

Một số quy định được thay đổi nhằm đảm bảo quyền lợi, chăm sóc sức khỏe, bảo đảm bình đẳng giới đối với lao động nữ. Ảnh minh họa

Bên cạnh việc kế thừa các quy định trước đây đối với lao động nữ, một số quy định đã có những sửa đổi, bổ sung nhằm thúc đẩy và bảo đảm thực hiện bình đẳng giới, có nhiều chính sách mở nhằm phát huy vai trò của lao động nữ cũng như quyền bình đẳng giữa nam và nữ.

Cụ thể, Bộ Luật Lao động 2019 bảo đảm quyền việc làm, quyền lao động của lao động nữ thay vì quy định hạn chế của Bộ Luật Lao động 2012 nhằm mở rộng cơ hội việc làm cho lao động nữ. Lao động nữ quyết định làm hoặc không làm “nghề, công việc có ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh sản và nuôi con” trên cơ sở được cung cấp đầy đủ thông tin và bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh lao động; trao quyền cho lao động nữ quyết định có làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa khi đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Đối với lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi đang mang thai, có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn hoặc giảm bớt 1 giờ làm việc hàng ngày mà không bị cắt giảm tiền lương cũng như quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Việc mở rộng phạm vi bảo vệ thai sản này nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng cho lao động nữ trong thời gian mang thai và nuôi con.

Trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người lao động được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong giờ làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động (Khoản 4 điều 137 Bộ luật Lao động) và được quy định chi tiết tại Khoản 3, 4 Điều 80 của Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ.

Lao động được bảo đảm việc làm cũ khi trở lại làm việc sau khi nghỉ hết thời gian theo quy định tại các khoản 1, 3 và 5 Điều 139 của Bộ luật này mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích so với trước khi nghỉ thai sản; trường hợp việc làm cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố trí việc làm khác cho họ với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản”.

Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới (Khoản 3 Điều 137 Bộ luật Lao động). Đây là quy định mới xuất phát từ đặc tính riêng có của lao động nữ là mang thai, sinh con và nuôi con nhằm bảo đảm tốt hơn duy trì công việc cho lao động nữ, có tiền lương, bảo đảm cuộc sống để có thể chăm sóc con nhỏ.

Bên cạnh đó, lao động nữ trong thời gian hành kinh có quyền được nghỉ mỗi ngày 30 phút tính vào thời giờ làm việc và vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động. Số ngày có thời gian nghỉ trong thời gian hành kinh do hai bên thỏa thuận phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc và nhu cầu của lao động nữ nhưng tối thiểu là 3 ngày làm việc trong 1 tháng.

Đối với người sử dụng lao động, theo Khoản 3 Điều 137, người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

Bạch Hiền (t/h)

Tin nổi bật