Miễn trách nhiệm hình sự là việc cơ quan tiến hành tố tụng quyết định không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, mặc dù hành vi của họ đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Đây không phải là việc phủ nhận hành vi phạm tội, mà là áp dụng chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước.
Luật sư Phạm Thanh Hữu (Đoàn luật sư TP.HCM) cho biết trên báo VnExpres, theo Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2024, 2025), căn cứ miễn trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
Trường hợp 1: Có sự thay đổi của chính sách pháp luật
Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Khi có quyết định đại xá.
Ảnh minh họa
Trường hợp 2: Người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội
Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
- Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Trường hợp 3: Đã khắc phục được hậu quả và được bị hại đề nghị miễn trách nhiệm hình sự
Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Như vậy, hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu theo quy định nêu trên thì không phải là tội phạm. Trường hợp được tòa án tuyên không phạm tội (vô tội) được hiểu là trước đó, người bị đưa ra xét xử đã bị khởi tố, điều tra, truy tố về một tội nào đó nhưng khi xét xử, Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi của bị cáo không phạm tội nên tuyên bị cáo vô tội. Trường hợp này, người được tuyên vô tội có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.
Đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự là trường hợp đủ căn cứ xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm nhưng vì một số lý do luật định (như nêu ở trên), bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự. Người được miễn trách nhiệm hình sự là người có tội nên họ không có quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017.