(ĐSPL) - Theo mạng tin Strafor, giàn khoan nước sâu chính là một trong công cụ thúc đẩy chiến lược độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Trung Quốc hiện đang đơn phương thúc đẩy hoạt động khai thác năng lượng tại Biển Đông, việc đặt giàn khoan nước sâu là nhằm khẳng định những yêu sách của nước này tại những thực thể đang tranh chấp ở Hoàng Sa.
|
Giàn khoan Haiyang Shiyou 981: Công cụ “xâm chiếm Biển Đông” của Trung Quốc. |
Hành động của Bắc Kinh có thể buộc Việt Nam triển khai lực lượng Cảnh sát biển đến khu vực nhằm bảo vệ chủ quyền, đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài trong vấn đề thăm dò và khai thác dầu khí tại khu vực.
Trung Quốc gây hấn với Việt Nam
Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong một vài năm qua tương đối êm ả. Tuy nhiên, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nước sâu Haiyang Shiyou 981 (Hải Dương 981) cách quần đảo tranh chấp Hoàng Sa gần 20 hải lý về phía tây đã làm dấy lên căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước.
Ngày 3/5, Bắc Kinh tuyên bố giàn khoan nước sâu Haiyang Shiyou 981 của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) sẽ được triển khai và hoạt động khoan dầu tại khu vực này từ ngày 4/5 đến 5/8 và tất cả tàu thuyền nước ngoài không được hoạt động trong khu vực có bán kính 3 hải lý tính từ tâm giàn khoan.
Việt Nam đã phản đối hoạt động xâm phạm chủ quyền nói trên và tuyên bố rằng khu vực này nằm trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của mình và yêu cầu Trung Quốc phải chấm dứt hoạt động khoan dầu của giàn khoan Hải Dương 981. Tàu công vụ của hai bên đã va chạm với nhau tại khu vực cách đảo Tri Tôn 17 hải lý.
Đơn phương khai thác vùng biển sâu có tranh chấp
Việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981 của CNOOC là bước đi đầu tiên nhằm đơn phương khai thác vùng biển sâu ở khu vực tranh chấp nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông.
Trước năm 2013, hoạt động khai thác năng lượng của Trung Quốc chủ yếu thực hiện ở các khu vực nước nông. Tuy nhiên khả năng khai thác nước sâu đã trở nên cấp thiết, khi Trung Quốc tìm kiếm nguồn năng lượng mới nhằm đảm bảo an ninh năng lượng. Việc tìm kiếm nguồn năng lượng mới diễn ra cùng lúc với tham vọng định hình lại môi trường an ninh và chính trị tại Biển Đông. Bắc Kinh coi hoạt động khai thác nước sâu là công cụ quan trọng nhằm thể hiện sự hiện diện trên thực tế (và kéo theo là quyền kiểm soát) tại vùng biển tranh chấp này.
Để hỗ trợ cho chiến lược của Bắc Kinh, trong một vài năm qua, CNOOC đã thay đổi trọng tâm và chuyển hướng phát triển năng lực khai thác nước sâu. Mặc dù vẫn đang trong giai đoạn ban đầu, nhưng CNOOC đã hợp tác với các công ty nước ngoài để phát triển năng lực vượt xa các quốc gia ven Biển Đông khác, trong đó có Philippines và Việt Nam.
Hiện tại, CNOOC được trang bị 2 giàn khoan, đó là giàn khoan Hải Dương 981 và Nam Hải VIII. Giàn khoan Hải Dương 981 có khả năng khoan ở độ sâu trên 3.000 m, giàn khoan Nam Hải VIII có khả năng khoan ở độ sâu 1.400 m. Trong khi đó, hoạt động khai thác nước sâu của Trung Quốc đã đạt được bước tiến vào đầu năm nay khi đạt được thỏa thuận khai thác chung với các công ty năng lượng Husky Energy và Calgary của Canada tại mỏ khí Liwan 3-1 ở Biển Đông.
Củng cố kiểm soát quần đảo Hoàng Sa
Trữ lượng dầu khí ở Biển Đông vẫn chưa thực sự rõ ràng, vì vậy có rất ít hoạt động khai thác thực sự tại đây. Tuy nhiên, xung quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa lại là nơi có trữ lượng dầu khí khá ổn định và mỏ khí gây tranh cãi mà giàn khoan Hải Dương 981 được triển khai có độ sâu khoảng 1.040 m.
Trung Quốc đã đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trong năm 1974. Tuy nhiên, mãi đến những năm 2000 Trung Quốc mới bắt đầu chỉnh thức củng cố yêu sách, khi nước này quyết đoán hơn trong việc thực hiện kế hoạch bành trướng lãnh thổ trên biển. Bắc Kinh đã đẩy mạnh sự hiện diện quân sự trong và xung quanh các quần đảo, thiết lập cái gọi là khu vực hành chính Tam Sa quản lý quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và bãi Macclesfield và tất cả đều nằm dưới sự quản lý hành chính của tỉnh Hải Nam, coi đó là quyền kiểm soát trên thực tế của Trung Quốc.
Vụ việc quần đảo Hoàng Sa chỉ là một trong những trường hợp Bắc Kinh thực hiện nhằm đẩy mạnh sự hiện diện tại Biển Đông và dần dần làm suy yếu các bên tuyên bố chủ quyền khác.
Chiến lược độc chiếm Biển Đông
Mặc dù có yêu sách chủ quyền đối với hầu như toàn bộ Biển Đông bằng “đường 9 đoạn”, Trung Quốc không có sự hiện diện thực tế trên bất kỳ hòn đảo nào (ngoài một vài rạn san hô và bãi đá ngầm) ở quần đảo Trường Sa. Hải quân Trung Quốc chưa thực sự đủ khả năng vượt qua các thách thức về mặt hậu cần. Vì vậy khả năng thống trị trên biển của Trung Quốc vẫn còn bị hạn chế.
Chiến lược Biển Đông của Trung Quốc có thể bao gồm 3 bước sau đây.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ sử dụng cái gọi là “đường 9 đoạn” làm yêu sách mang tính lịch sử nhằm hỗ trợ cho sự hiện diện tại các vùng biển tranh chấp.
Thứ hai, Trung Quốc sẽ củng cố yêu sách tại các khu vực có lợi thế chiến thuật mà nước này có sự hiện diện trên thực tế như khu vực quần đảo Hoàng Sa, bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc đã chiếm của Philippines từ năm 2012.
Thứ ba, Trung Quốc sẽ tiếp tục phát triển năng lực về kỹ thuật và quân sự sao cho hoàn toàn vượt trội so với các nước cũng có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Điều này cho phép Trung Quốc mở rộng biên giới biển mà không gây ra phản ứng đồng thời của các quốc gia láng giềng.
Chỉ có điều, áp lực về lãnh thổ trên Biển Đông buộc các quốc gia láng giềng phải tìm kiếm sự hỗ trợ và hợp tác quân sự từ bên ngoài để đối phó với một Trung Quốc đang ngày càng hung hăng, quyết đoán hơn. Điều này có thể thấy qua cách tiếp cận hợp tác với các công ty năng lượng nước ngoài của Việt Nam. Việt Nam đã hợp tác khai thác dầu khí ở Biển Đông với Nga và Ấn Độ. Trong khi đó, Philippines đang tăng cường trao đổi quân sự với Washington nhằm đối phó với Trung Quốc. Bên cạnh đó, Manila cũng sử dụng tòa án quốc tế để làm suy yếu yêu sách của Trung Quốc.