Theo Điều 48 Luật Hộ tịch 2014, khi công dân Việt Nam đã đăng ký kết hôn với người nước ngoài hoặc với công dân Việt Nam khác ở nước ngoài thì không cần phải thực hiện việc đăng ký lại kết hôn. Cụ thể:
- Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam ghi vào Sổ hộ tịch việc khai sinh; kết hôn; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
- Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cá nhân đã đăng ký kết hôn hoặc ghi chú việc kết hôn trước đây ghi vào Sổ hộ tịch việc ly hôn, hủy việc kết hôn của cá nhân đã thực hiện ở nước ngoài.
Như vậy, khi thủ tục kết hôn đã được thông qua tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì công dân Việt Nam chỉ phải thực hiện việc ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn này khi tại thời điểm kết hôn các bên đáp ứng điều kiện kết hôn, không vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Ngày càng có nhiều cặp đôi lựa chọn tổ chức hôn lễ và đăng ký kết hôn ở nước ngoài. Ảnh minh họa
Trong trường hợp không đáp ứng điều kiện kết hôn nhưng không vi phạm điều cấm vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì cũng ghi việc kết hôn vào Sổ hộ tịch trong hai trường hợp sau đây:
- Khi yêu cầu ghi vào Sổ hộ tịch việc kết hôn, hậu quả đã được khắc phục;
- Ghi vào Sổ hộ tịch để bảo vệ quyền lợi của công dân Việt Nam và trẻ em.
Như vậy, khi đã đăng ký kết hôn ở nước ngoài thì công dân Việt Nam không cần thực hiện việc đăng ký kết hôn lại ở Việt Nam mà chỉ cần thực hiện thủ tục ghi chú kết hôn để việc kết hôn tại nước ngoài được công nhận ở Việt Nam.