Theo một báo cáo khoa học được xuất bản trên tạp chí Zootaxa, các nhà khoa học và sinh vật học đến từ nhiều quốc gia bao gồm Việt Nam, Nga và Đức đã có những nghiên cứu về dữ liệu hình thái, sinh học và di truyền của loài rắn khuyết Việt Nam (còn có tên rắn sói đá vôi, tên khoa học Lycodon calcarophilus).
Dân Trí dẫn lời Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, cán bộ nghiên cứu Trường Đại học Duy Tân (Đà Nẵng), thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết loài rắn khuyết Việt Nam đã từng có lịch sử phân loại và danh pháp phức tạp, có nhiều nét tương đồng và được xem là một phân loài của rắn khuyết Đài Loan (Trung Quốc) (tên khoa học Lycodon ruhstrati).
Loài rắn khuyết Việt Nam mới được công nhận có nhiều biến thể về hình thái. Ảnh: Andrey M. Bragin/R. Hendrix
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy rắn khuyết Việt Nam có những điểm khác biệt về tỷ lệ cơ thể, vảy, đặc tính di truyền… và rắn khuyết Việt Nam đã được công nhận là một loài hoàn toàn mới.
Rắn khuyết Việt Nam hiện chỉ được tìm thấy ở những khu vực núi đá vôi thuộc Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (tỉnh Quảng Trị), ở độ cao từ 200 đến 250m.
Đây là loài rắn kích thước nhỏ, chỉ dài hơn 60cm, cơ thể được chia thành những khoang đen, trắng không đều nhau, bụng có hoa văn đen trắng xen kẽ. Loài rắn này hoạt động vào ban đêm hoặc sáng sớm và thường săn thằn lằn để ăn thịt.
Một đặc điểm hình thái quan trọng giúp phân biệt loài này là vảy bên má chạm mắt, điều không thấy ở các loài rắn khuyết gần gũi khác.
Theo Tri Thức & Cuộc sống, trong quá trình đánh giá lại phân loại và phân bố của nhóm rắn khuyết đốm Lycodon fasciatus, nhóm nghiên cứu gồm Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, Tiến sĩ Gernot Vogel (CHLB Đức), Thạc sĩ Andrey Bragin và Phó giáo sư - Tiễn sĩ Nikolay Poyarkov (Nga) đã tiến hành thu thập nhiều mẫu vật tại khu vực châu Á và kiểm tra thêm các mẫu rắn được lưu trữ tại các bảo tàng động vật học trên thế giới.
Những đặc điểm trên phần đầu là điểm nhận dạng giúp phân biệt rắn khuyết Việt Nam với các loài rắn khuyết khác. Ảnh: Andrey M. Bragin
Trong một chuyến khảo sát ngắn tại khu vực núi đá vôi gần Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, nhóm đã phát hiện một cá thể rắn có hình thái tương tự Lycodon fasciatus – loài phổ biến ở miền Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên, sau khi tiến hành phân tích chi tiết về hình thái và dữ liệu di truyền từ ba đoạn gene quan trọng, kết quả cho thấy cá thể này không phải là biến thể của L. fasciatus mà thực chất là một loài hoàn toàn mới đối với khoa học. Phát hiện này góp phần làm sáng tỏ tính đa dạng và phức tạp trong phân loại của nhóm rắn Lycodon tại khu vực Đông Nam Á.
Tên loài calcarophilus (tạm dịch “ưa đá vôi”) nhấn mạnh mối liên hệ sinh thái mật thiết của loài với hệ sinh thái đá vôi đặc hữu miền Trung. Loài được tìm thấy trong rừng đá vôi nguyên sinh, nơi có nhiều hang động, lớp lá mục dày và hệ thực vật cổ xưa. Các quan sát đầu tiên cho thấy chúng săn mồi thằn lằn gần miệng hang vào lúc chạng vạng.
Sự chuyên biệt về môi trường đá vôi gợi ý khả năng hình thành loài chịu tác động mạnh mẽ từ điều kiện cô lập của “hòn đảo sinh thái” này. Theo Thạc sĩ Nguyễn Văn Tân, trong chi Lycodon đã ghi nhận ít nhất ba loài chỉ sinh sống tại môi trường đá vôi, cho thấy một xu hướng phân hóa sinh thái đáng chú ý.
Hiện loài mới chỉ được biết đến tại Phong Nha – Kẻ Bàng, song nhiều khả năng còn phân bố ở các dãy đá vôi lân cận như Kẻ Nước Trong (Quảng Bình), Bắc Hướng Hóa (Quảng Trị) và thậm chí tỉnh Khammouane (Lào).
Tuy nhiên, sinh cảnh nơi đây đang chịu áp lực từ khai thác rừng, phát triển du lịch và chăn thả tự do. Nhóm tác giả đề xuất xếp loài này vào nhóm Thiếu dữ liệu (Data Deficient – DD) theo tiêu chí IUCN để tiếp tục theo dõi tình trạng bảo tồn.
“Khám phá loài này giống như mở ra thêm một tầng ẩn giấu của thiên nhiên Việt Nam, ngay cả tại nơi được khảo sát rất nhiều như Phong Nha – Kẻ Bàng", Phó giáo sư - Tiễn sĩ Nikolay A. Poyarkov nhận định.