Tri Thức Trực Tuyến đưa tin, vào ngày 22/2, Thứ trưởng bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn ký ban hành Quyết định 405 kèm "Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 ở trẻ em". Hướng dẫn này thay thế quyết định số 5155 kèm văn bản ban hành ngày 8/11/2021.
Trong hướng dẫn chẩn đoán, điều trị mới, bộ Y tế cho biết SARS-CoV-2 gây bệnh ở cả người lớn và trẻ em, tuy nhiên gần đây, số trẻ F0 đang có xu hướng gia tăng.
Phần lớn trẻ mắc COVID-19 không triệu chứng hoặc nhẹ với biểu hiện viêm hô hấp trên hoặc tiêu hoá (55%), trung bình (40%), nặng (4%), nguy kịch (0,5%).
Trẻ em mắc COVID-19 thường ở thể nhẹ vì thế tỉ lệ nhập viện và tử vong ít so với người lớn. Hội chứng viêm đa hệ thống (MIS-C) ở trẻ em mắc COVID-19 hiếm gặp, gặp ở giai đoạn muộn sau nhiễm SARS-CoV-2 từ 2-6 tuần. Đây là biến chứng nặng có thể gây tử vong và có xu hướng gia tăng.
Ảnh minh họa - Báo Chính Phủ.
Riêng đối với trẻ sơ sinh mắc COVID-19 thường không triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ và không đặc hiệu như: Sốt, ho, bú kém, nôn, tiêu chảy, trẻ li bì, khóc yếu, thở nhanh, có cơn ngừng thở, tím tái khi nặng. Xét nghiệm chẩn đoán nhiễm SARS-CoV-2 sớm ở trẻ sơ sinh được thực hiện trong vòng 24 giờ sau sinh và sau khi được kề da ít nhất 90 phút và hoàn thành cữ bú đầu tiên trên ngực mẹ; nếu kết quả xét nghiệm âm tính, thực hiện lại xét nghiệm sau 48-72 giờ.
Trong hướng dẫn mới, bộ Y tế thay đổi hướng dẫn về trường hợp bệnh nghi ngờ và xác định. Cụ thể:
Trẻ nhiễm không có triệu chứng: Là những trẻ được chẩn đoán xác định nhiễm COVID-19 nhưng không có bất kỳ biểu hiện lâm sàng nào.
Mức độ nhẹ:
Triệu chứng không điển hình: Sốt, đau họng, ho, chảy mũi, tiêu chảy, nôn, đau cơ, ngạt mũi, mất khứu/vị giác, không có triệu chứng của viêm phổi.
Nhịp thở bình thường theo tuổi.
Không có biểu hiện của thiếu ô xy, SpO2 ≥ 96% khi thở khí trời.
Thần kinh: Trẻ tỉnh táo, sinh hoạt bình thường, bú mẹ/ăn/uống bình thường.
X-quang phổi bình thường.
“Với trẻ có bệnh nền: Béo phì, bệnh phổi mãn, suy thận mãn, gan mật, dùng corticoid kéo dài, suy giảm miễn dịch, tim bẩm sinh..., cần theo dõi sát vì dễ diễn biến nặng”, bộ Y tế lưu ý.
Mức độ trung bình: Có triệu chứng viêm phổi nhưng không có các dấu hiệu của viêm phổi nặng và rất nặng: Thở nhanh: Trẻ < 2 tháng tuổi: ≥ 60 lần/phút; trẻ từ 2-11 tháng: ≥ 50 lần/phút; trẻ từ 1-5 tuổi: ≥ 40 lần/phút. Ngoài ra, SpO2: 94% - 95% khi thở khí trời. Trẻ tỉnh táo, mệt, ăn, bú và uống ít hơn. X-quang phổi có tổn thương dạng mô kẽ, kính mờ (thường 2 đáy phổi).
Mức độ nặng: Trẻ có triệu chứng viêm phổi nặng, chưa có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa tính mạng: Thở nhanh theo tuổi (≥ 1 tuổi) kèm dấu hiệu co rút lồng ngực hoặc thở rên (trẻ < 2 tháng tuổi), phập phồng cánh mũi. Ngoài ra, trẻ khó chịu, quấy khóc, bú, ăn và uống khó; SpO2: 90% đến dưới 94%; X-quang phổi có tổn thương dạng mô kẽ, kính mờ lan tỏa ≥ 50% phổi.
Mức độ nguy kịch: Suy hô hấp nặng SpO2 < 90% khi thở khí trời, cần đặt nội khí quản thông khí xâm nhập. Ngoài ra, có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa tính mạng: Thở bất thường, rối loạn nhịp thở; ý thức giảm, khó đánh thức hoặc hôn mê; trẻ bỏ bú/ăn hoặc không uống được; hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS); huyết áp tụt, sốc, sốc nhiễm trùng, lactat máu > 2 mmol/L; suy đa tạng; cơn bão cytokine (thủ phạm gây biến chứng nặng ở người nhiễm COVID-19).
Các dấu hiệu nguy hiểm đe dọa tính mạng: Tím trung tâm; thở bất thường, rối loạn nhịp thở. Về thần kinh, ý thức của trẻ giảm, khó đánh thức hoặc hôn mê; trẻ bỏ bú/ăn hoặc không uống được; hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS); huyết áp tụt, sốc, sốc nhiễm trùng; suy đa tạng; cơn bão cytokine.
Điểm đáng chú ý trong hướng dẫn lần này là bộ Y tế bổ sung việc điều trị bằng thuốc kháng virus Remdesivir (hướng dẫn trước không có). Theo đó, thuốc Remdesivir được chỉ định điều trị cho người bệnh nội trú thể nhẹ có ít nhất 1 yếu tố nguy cơ, hoặc người bệnh suy hô hấp phải thở oxy/thở CPAP/thở oxy dòng cao HFNC/thở máy không xâm nhập. Trước đó, trẻ mức độ nhẹ không dùng Remdesivir).
Bích Thảo (T/h)