Đóng

Tranh luận về văn bằng bác sĩ nội trú: Khi tinh hoa ngành Y vướng rào cản "công nhận chính danh" do khoảng trống pháp lý

  • Thủy Tiên (T/h)
(DS&PL) -

Được ví là "tinh hoa của tinh hoa" với quá trình đào tạo khắc nghiệt bậc nhất, nhưng nghịch lý thay, bác sĩ nội trú lại như đang đứng bên lề hệ thống giáo dục quốc dân vì những quan điểm khác nhau giữa hai Bộ.

Nghịch lý học nhiều nhưng bằng cấp "lép vế"

Thông tin trên báo Lao động, vấn đề công nhận văn bằng trong đào tạo bác sĩ nội trú, chuyên khoa - vốn là những tranh luận kéo dài nhiều năm qua - một lần nữa làm nóng diễn đàn Quốc hội. Câu chuyện không chỉ dừng lại ở tên gọi mà còn là những vướng mắc về cơ chế, sự công bằng và khả năng hội nhập quốc tế của nhân lực ngành Y.

Theo số liệu từ Bộ Y tế, lực lượng bác sĩ thuộc chương trình chuyên khoa và nội trú hiện chiếm khoảng 2/3 nhân lực sau đại học của toàn ngành. Tuy nhiên, một thực tế tồn tại lâu nay là các đối tượng này lại không nằm trong “khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân”.

Nguyên nhân xuất phát từ quan điểm của Bộ GD&ĐT, coi bác sĩ nội trú, chuyên khoa I, chuyên khoa II là chương trình đào tạo nghề nghiệp chuyên môn sau đại học. Mục tiêu của chương trình này là hình thành năng lực hành nghề chuyên khoa, chứ không nhằm cấp văn bằng học thuật như thạc sĩ hay tiến sĩ.

Vấn đề công nhận văn bằng trong đào tạo bác sĩ nội trú, chuyên khoa - vốn là những tranh luận kéo dài nhiều năm qua. Ảnh minh họa 

Tại diễn đàn Quốc hội, đại biểu Nguyễn Tri Thức - Thứ trưởng Bộ Y tế khẳng định, bác sĩ nội trú là "tinh hoa của tinh hoa" ngành y, do đó không thể bị đánh đồng hay xem nhẹ như một loại “chứng chỉ hành nghề” đơn thuần.

Đồng quan điểm, đại biểu Quốc hội Trần Khánh Thu (Đoàn Hưng Yên) cũng cho rằng những nhận định hiện tại của Bộ GD&ĐT là thiếu công bằng với hệ thống đào tạo sau đại học đặc thù của lĩnh vực y tế.

Sự "lệch pha" trong quan điểm giữa hai ngành Y tế và Giáo dục đã tạo ra một khoảng trống pháp lý lớn. Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 7.000 bác sĩ chuyên khoa được đào tạo nhưng lại thiếu sự xác nhận văn bằng học thuật tương đương thạc sĩ, tiến sĩ. Điều này gây khó khăn không nhỏ trong việc so sánh trình độ, học lên cao hoặc di chuyển nghề nghiệp quốc tế, nhất là khi nhiều quốc gia đòi hỏi chứng chỉ chuyên khoa rất rõ ràng.

Cần "trọng tài" để thống nhất cơ chế

Liên quan đến vấn đề trên, báo Tiền phong dẫn lời GS.TS Lê Ngọc Thành, Hiệu trưởng Trường ĐH Y Dược (ĐH Quốc gia Hà Nội), Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam phân tích sâu hơn về sự chênh lệch này. Ông cho biết, chương trình đào tạo bác sĩ nội trú thực tế đã bao hàm toàn bộ nội dung của chương trình thạc sĩ và chuyên khoa I. Không những thế, thời gian thực hành của bác sĩ nội trú còn sâu hơn và vất vả hơn rất nhiều.

Một nghịch lý khiến người trong cuộc khó chấp nhận là việc bác sĩ nội trú phải trực ngày đêm tại bệnh viện, xử lý hàng trăm ca bệnh phức tạp trong suốt 3 năm học, được đào tạo theo phương pháp "cầm tay chỉ việc" gắn liền với sinh mạng bệnh nhân. Tuy nhiên, công sức này lại không được công nhận tương đương với một luận văn thạc sĩ - vốn chỉ kéo dài 2 năm đào tạo và kết thúc bằng một luận văn vài chục trang giấy.

Nếu xếp bác sĩ nội trú ngang hàng thạc sĩ, tiến sĩ thì chuẩn học thuật bị phá vỡ. Ngược lại, nếu để họ đứng ngoài hệ thống giáo dục quốc dân, những giá trị thực tế của y khoa vốn cao hơn nhiều ngành khác sẽ bị xem nhẹ.

Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 7.000 bác sĩ chuyên khoa được đào tạo nhưng lại thiếu sự xác nhận văn bằng học thuật tương đương thạc sĩ, tiến sĩ. Ảnh minh họa 

Theo GS.TS Lê Ngọc Thành, nguyên nhân sâu xa của những tranh cãi này là do sự nhầm lẫn trong đối sánh với quốc tế. Ở các nước tiên tiến, giai đoạn đào tạo chuyên sâu (tương ứng bác sĩ nội trú, chuyên khoa ở Việt Nam) do Bộ Y tế đảm nhận nhưng vẫn nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong khi đó tại Việt Nam, mảng đào tạo này lại nằm ngoài hệ thống, chỉ có thạc sĩ và tiến sĩ y khoa là được công nhận.

Để giải quyết bất cập, GS. Thành kiến nghị cần đưa giai đoạn đào tạo chuyên sâu của y khoa vào hệ thống giáo dục quốc dân. Ông đề xuất cơ chế linh hoạt: Bác sĩ chuyên khoa I muốn có bằng thạc sĩ, hoặc chuyên khoa II muốn có bằng tiến sĩ, có thể học bổ sung các mô-đun còn thiếu (như môn phụ trợ, chuyên đề, bài báo khoa học) và bảo vệ luận văn, luận án.

Lý do được đưa ra là nội dung đào tạo chuyên khoa I gần giống thạc sĩ, chỉ khác ở việc không làm luận văn tốt nghiệp. Tương tự, bác sĩ chuyên khoa II có chương trình gần giống tiến sĩ, thậm chí luận văn tốt nghiệp có bố cục như một luận án tiến sĩ, chỉ khác biệt ở định hướng tập trung vào tay nghề thực hành.

"Điểm cốt lõi hiện nay là chưa có trọng tài", ông Thành nhấn mạnh. Dù lý lẽ của cả hai Bộ đều có cơ sở riêng nhưng lại không theo thông lệ quốc tế, gây khó cho người học và cơ quan quản lý. Vị chuyên gia này mong muốn Chính phủ sẽ đứng ra chủ trì, triệu tập các Bộ liên quan (Y tế, GD&ĐT, Nội vụ, Tài chính, Tư pháp) để bàn thảo và đưa ra chính sách thống nhất. Việc pháp lý hóa hệ đào tạo này sẽ giúp nâng cao uy tín khoa học cho đội ngũ bác sĩ, đồng thời minh bạch hóa hệ thống văn bằng vốn đòi hỏi thời gian đào tạo rất dài, ít nhất là 7 năm của ngành Y.

Tin nổi bật