Theo số liệu mới nhất, có 3.789 loài rắn trên toàn thế giới. Con số này tiếp tục tăng lên vì ngày càng có nhiều loài được phát hiện. Loài mới nhất là Phalotris shawnella, một loài rắn đào hang màu cam, nâu và đỏ tuyệt đẹp được tìm thấy tại Paraguay vào tháng 5/2022. Chỉ riêng bang Arizona của Mỹ đã là nơi sinh sống của 13 loài rắn đuôi chuông khác nhau.
Mặc dù khó có thể xác định chính xác thời điểm rắn xuất hiện trên hành tinh của chúng ta do bộ xương mỏng manh của chúng nhưng rắn lần đầu tiên xuất hiện trong hồ sơ hóa thạch vào kỷ Phấn trắng. Các nhà khoa học tin rằng điều này khiến rắn xuất hiện cách đây 98 đến 142 triệu năm. Tuy nhiên, chúng vẫn là loài trẻ hơn so với các loài bò sát khác như cá sấu, thằn lằn và rùa.
Bò sát đôi khi được gọi là động vật máu lạnh nhưng điều này không đúng vì máu của chúng thực sự không lạnh. Thuật ngữ chính xác là động vật biến nhiệt, nghĩa là nhiệt độ cơ thể của chúng thay đổi và được điều chỉnh bởi các nguồn bên ngoài. Không giống như động vật có vú và chim có khả năng điều chỉnh bên trong, để kiểm soát nhiệt độ cơ thể, loài bò sát cần sử dụng nguồn nhiệt như mặt trời để làm ấm cơ thể.
Từ những khu rừng rậm, sa mạc và ngay cả trong sân vườn nhà chúng ta, rắn có thể được tìm thấy ở mọi châu lục trên Trái Đất ngoại trừ Nam Cực. (ẢNH: REUTERS)
Khác với con người dùng mũi, rắn lại ngửi bằng miệng. Vòm miệng của chúng có một cơ quan khứu giác đặc biệt, và rắn dùng lưỡi để cảm nhận các chất hóa học trong không khí, sau đó vận chuyển chúng đến cơ quan trên để ngửi. Đó là lý do các loài rắn thường hay thè lưỡi.
Rắn phải lột da do phần da không phát triển cùng những phần còn lại của cơ thể. Có những loài rắn lột da đến 12 lần/năm và mỗi lần như vậy, chúng sẽ bỏ đi toàn bộ lớp da hiện có.
Hàm của rắn không kết nối với xương đầu. Chúng có thể mở rộng theo chiều dọc và chiều ngang, giúp nuốt được những con mồi có kích thước lớn chúng. Song, nuốt trọn con mồi lớn và tiêu hóa sẽ mất nhiều thời gian do rắn chỉ nuốt và không nhai.
Rắn độc tiết nọc độc trong tuyến nước bọt, sau đó cắn con mồi để đầu độc chúng. Đến nay có hơn 600 loài rắn độc, bao gồm một số loài phổ biến như rắn Mamba đen, rắn hổ mang chúa và rắn Boomslang.
Rắn không sở hữu đôi tai có thể nhìn thấy được như ở con người hay các loài động vật khác. Thay vào đó, cơ quan được gọi là “tai rắn” lại nằm bên trong và kết nối trực tiếp với xương hàm. Tai của rắn sẽ cảm nhận được các rung động của xương hàm, từ đó truyền tín hiệu đến não. Cơ chế này khiến loài rắn có thể được xem là dùng hàm để “nghe”.
Cấu tạo xương của rắn hầu hết là xương sườn. Xương sườn của rắn gắn với mọi đốt sống và không nối vào nhau ở phần trước. Điều này giúp rắn có thể mở rộng bên trong cơ thể nó để tiêu hóa những con mồi lớn.
Rắn có thể cảm nhận sự hiện diện của các loài động vật thông qua lượng nhiệt mà chúng tỏa ra. Các lỗ nhỏ ở trên mặt, gần với miệng giúp loài rắn mang chức năng này. Điều đó giúp rắn có thể xác định con mồi khi đi săn vào ban đêm.
Nhiều nền văn hóa cổ đại tôn kính rắn như một sinh vật bảo vệ và thậm chí là hiện thân của các vị thần. Chúng có thể là biểu tượng của khả năng sinh sản, tái sinh, sức khỏe hoặc trí tuệ. (ẢNH: REUTERS)
Ngoài trườn bò trên đất và bơi trong nước, một số loài rắn như loài Chrysopelea, xuất hiện nhiều ở Nam và Đông Nam Á, có thể “bay” từ cây này sang cây khác. Chính xác thì chúng sở hữu khả năng lượn (gliding), khi chúng sẽ bò lên những cành cây cao, xương sườn của rắn có thể điều chỉnh thành hình dạng khí động học, qua đó giúp nó lơ lửng trên không khi bay giữa các cành cây.
Thức ăn duy nhất của rắn là thịt. Con mồi của các loài rắn nhỏ thường là chuột, cá, côn trùng hoặc chim, trong khi các loài rắn lớn có thể nhằm vào rùa, thỏ, nai và thậm chí là ăn thịt các loài rắn khác.
Rắn là loài động vật máu lạnh (hoặc động vật biến nhiệt), tương tự các loài bò sát khác. Điều này đồng nghĩa chúng cần dựa vào môi trường bên ngoài để giữ ấm, giải thích cho việc rắn thường sống ở những nơi có khí hậu ấm áp. Các loài rắn ở vùng lạnh cần ngủ đông nếu muốn sống sót.
Một số loài rắn đẻ trứng, trong khi số khác đẻ con. Rắn mẹ của một số loài thường sẽ ở lại tổ để bảo vệ trứng hoặc con của chúng khỏi các loài săn mồi khác.