Nếu như trước đây các vụ dụ dỗ, bắt cóc trẻ em chủ yếu diễn ra ngoài xã hội, thì nay, với sự bùng nổ của internet và mạng xã hội, các hành vi này đã len lỏi vào cả không gian mạng, khiến công tác bảo vệ trẻ em trở nên phức tạp hơn bao giờ hết.
TS. Luật sư Đặng Văn Cường, Ủy viên Ban chấp hành Hội bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam cho biết, theo quy định pháp luật Việt Nam, trẻ em là người chưa đủ 16 tuổi. Trong giai đoạn này, cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm trực tiếp trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của trẻ em theo quy định của Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Trẻ em và Luật Hôn nhân và Gia đình.
Luật Trẻ em quy định rõ, bảo vệ trẻ em là thực hiện những biện pháp nhằm đảm bảo cho trẻ được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại; đồng thời trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Đặc biệt, pháp luật nghiêm cấm tuyệt đối các hành vi: tước đoạt quyền sống, bỏ rơi, mua bán, bắt cóc, xâm hại tình dục, bạo lực, bóc lột…
Theo TS. Cường, nếu trước đây trẻ em chỉ giao tiếp trực tiếp trong gia đình, trường học và cộng đồng, thì nay, các em còn tiếp xúc hàng ngày với thế giới mạng. Các nền tảng như YouTube, TikTok, game online… có sức hút mạnh mẽ nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ khiến trẻ nghiện điện thoại, ảnh hưởng thể chất và tâm lý.
Hành vi "bắt cóc online" đã len lỏi vào cả không gian mạng
“Không ít trẻ em bị dụ dỗ, lôi kéo qua mạng, thậm chí bỏ nhà ra đi. Vấn đề này ngày càng đáng báo động”, ông nói.
Một trong những lỗ hổng hiện nay là hệ thống pháp luật chưa theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ. Trong khi trẻ em dễ dàng tiếp xúc với những clip độc hại, bạo lực, đồi trụy, các đối tượng xấu lại dễ dàng ẩn danh, mạo danh để dụ dỗ, lừa gạt.
Khoảng trống pháp lý trong xử lý hành vi dụ dỗ trẻ em online
Hiện Bộ luật Hình sự có các quy định xử lý nghiêm hành vi xâm hại trực tiếp đến trẻ em (giết người, hiếp dâm, dâm ô…). Tuy nhiên, các hành vi dụ dỗ, lôi kéo trẻ qua mạng – đặc biệt khi chưa gây hậu quả cụ thể – lại thường chỉ bị xử phạt hành chính. Điều này khiến công tác phòng ngừa gặp nhiều khó khăn.
Theo TS. Cường, tới đây cần xem xét hình sự hóa hành vi dụ dỗ, lôi kéo trẻ em bỏ nhà ra đi hoặc tham gia các hoạt động lệch chuẩn trên mạng. Nếu không, trẻ em sẽ tiếp tục là nhóm dễ bị tổn thương nhất trước tội phạm công nghệ cao.
Ông Cường lấy ví dụ, nhiều quốc gia đã đi trước Việt Nam trong việc định danh tội phạm “grooming” – tức dụ dỗ trẻ em qua mạng. Ở Mỹ, chỉ cần nhắn tin gợi ý, sắp xếp gặp mặt trẻ dưới 18 tuổi với mục đích xấu đã có thể cấu thành tội. Tại Anh, Úc, Canada, việc gửi hình ảnh khiêu dâm, tạo dựng quan hệ để khai thác thông tin cá nhân của trẻ đều bị xử lý hình sự.
TS. Luật sư Đặng Văn Cường, Ủy viên Ban chấp hành Hội bảo vệ Quyền trẻ em Việt Nam
Theo chuyên gia, Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm này để sớm bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật, tăng cường phòng ngừa từ sớm, thay vì chỉ xử lý khi hậu quả đã xảy ra.
Ngoài ra, TS. Cường nhấn mạnh vai trò quan trọng của cha mẹ và các nền tảng mạng xã hội. Cha mẹ cần giám sát, kiểm soát thời gian và nội dung trẻ tiếp cận trên mạng. Trong khi đó, các nền tảng cần có hệ thống lọc nội dung, dán nhãn và cơ chế bảo vệ người dùng nhỏ tuổi.
“Để trẻ em không bị ‘thả nổi’ trên không gian mạng, cần sự vào cuộc đồng bộ của nhà trường, gia đình, cơ quan chức năng và cả các doanh nghiệp công nghệ. Các cơ quan báo chí cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, cảnh báo, những bài học cũng như chiến công của lực lượng công an trong việc giải cứu, lấy đó làm bài học cảnh giác. Nhà trường, cha mẹ cũng cần tăng cường biện pháp giáo dục ngăn chặn, phòng ngừa vv.. Nếu không, những vụ việc dụ dỗ, lôi kéo qua mạng sẽ còn tiếp tục xảy ra”, ông Cường nói.