TS. Nguyễn Minh Phong - nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội.
“Nỗi đau chung” của nhiều ngân hàng
Kết thúc năm 2023, nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Doanh nghiệp vẫn chưa thể phục hồi sau khủng hoảng từ đại dịch Covid-19 dẫn đến chưa có khả năng để trả nợ vay ngân hàng, làm cho “khối u” nợ xấu ngày một phình to, trở thành nỗi đau chung của nhiều ngân hàng.
Trao đổi với Đời sống và Pháp luật, TS. Nguyễn Minh Phong - nguyên Trưởng phòng Nghiên cứu kinh tế, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội cho rằng, việc xử lý nợ xấu năm 2023 chủ yếu dựa trên cơ sở chậm, hoãn, giãn tiến độ chứ không trả nợ được nhiều. Lý giải về nguyên nhân dẫn đến việc nợ xấu không ngừng gia tăng, ông Phong cho rằng chủ yếu là do thời gian trả nợ đã đến. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chưa có khả năng hoàn trả do bị hạn chế nguồn thu và lợi nhuận.
Còn theo TS. Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), nợ xấu tại Việt Nam hiện nay đang kéo dài dai dẳng. Nó luôn tồn tại trong hoạt động của ngân hàng qua các năm và khó xử lý dứt điểm. Theo ông Thành, nợ xấu dai dẳng vì gắn với vấn đề liên quan xung quanh câu chuyện sở hữu chéo. Đồng thời câu chuyện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu liên tục kéo dài từ năm 2012 đến nay cũng phần nào khiến nợ xấu mãi không được xử lý dứt điểm.
TS. Võ Trí Thành - nguyên Phó Viện trưởng CIEM.
Ngân hàng đang được trao nhiều công cụ xử lý nợ xấu
Theo TS. Châu Đình Linh - Trường Đại học Ngân hàng Tp.Hồ Chí Minh ngân hàng hiện nay đã được trao cho những công cụ rất là tốt để xử lý tài sản đảm bảo cũng như để thực hiện tiến độ xử lý nợ xấu cho toàn hệ thống.
Đó là Thông tư 02 của Ngân hàng Nhà nước quy định về việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/4/2023 cho đến hết tháng 6/2024. “Thông tư 02 giúp kéo dài khoảng thời gian để giúp cho doanh nghiệp phục hồi và có thể thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ vay của mình cho ngân hàng”, ông Linh nhấn mạnh.
Đồng quan điểm với ông Linh, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng việc xử lý nợ theo kiểu chậm, giãn hoãn như vậy giúp doanh nghiệp giảm bớt sức ép thanh toán, giảm bớt được sức ép phải phá sản, giúp các doanh nghiệp có thêm cơ hội, thời gian để tìm kiếm cơ hội, dòng tiền trả nợ.
Bên cạnh đó, Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025” cũng chỉ rõ những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể nhằm phấn đấu đến năm 2025 giảm số lượng các TCTD, xử lý cơ bản các ngân hàng yếu kém, không để phát sinh những ngân hàng yếu kém mới, hệ thống các TCTD lành mạnh và phát triển bền vững.
Ngoài ra, Nghị quyết 42 của Quốc hội quy định thí điểm một số chính sách về xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu vừa hết hiệu lực vào 31/12/2023 vừa qua cũng đã góp phần không nhỏ trong việc giảm bớt áp lực xử lý nợ xấu tại các ngân hàng.
Song, trước sự gia tăng không ngừng của nợ xấu trong những tháng cuối năm, các ngân hàng đã liên tục có động thái đấu giá, rao bán tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu nhằm thu hồi vốn. Thậm chí, một số ngân hàng còn tổ chức ngày hội thanh lý tài sản để giới thiệu các loại tài sản cần bán, từ nhà đất, đất nền đến ô tô các loại nhằm thu hút bên mua.
TS. Châu Đình Linh nhận định, tài sản đảm bảo cho các khoản nợ hiện nay phần lớn nó đều là bất động sản. Tuy nhiên, giao dịch trên thị trường bất động sản đang rất hạn chế, cho nên việc thanh lý, thực hiện đấu giá thành công cũng là một bài toán khó đặt ra với các ngân hàng thương mại.
Đồng thời, dù đã có luật hóa cho Nghị quyết 42 về xử lý tài sản đảm bảo, nhưng vẫn tồn tại sự chống đối của những người đi vay thông qua rất nhiều biện pháp khác nhau mà Nghị quyết 42 chưa thể lường trước được. Ông Linh nhấn mạnh, việc xử lý tài sản đảm bảo không phải “cây đũa thần”để giảm tỉ lệ nợ xấu.
Thay vào đó, ngân hàng cần xử lý nợ xấu dựa trên việc trích lập dự phòng từ lợi nhuận giữ lại. Đồng thời gia tăng tiềm lực, sức mạnh tài chính của ngân hàng bằng việc gia tăng tỉ lệ bao phủ nợ xấu. Ngoài ra cần phải hoàn thiện chuẩn mực Basel II. Ông Linh cho rằng, xử lý nợ xấu không chỉ là riêng câu chuyện xử lý tài sản đảm bảo.
Dự báo về tình hình nợ xấu trong năm 2024, Công ty Chứng khoán VCBS nhìn nhận, nợ xấu nội bảng và mức trích lập dự phòng vẫn trong tầm kiểm soát nhờ các thông tư và chính sách hỗ trợ và khách hàng quay lại trả nợ khi áp lực chi phí lãi vay giảm bớt.
Trong kịch bản Thông tư 02 không được gia hạn, VCBS dự báo tỉ lệ nợ xấu toàn ngành (loại trừ SCB và các ngân hàng CGBB) tăng nhanh khi nợ tái cơ cấu tới thời hạn trả, tỉ lệ nợ tái cơ cấu sẽ giảm kể từ quý II/2024, tuy nhiên có sự phân hóa.
Thu Hương
Bài đăng trên ấn phẩm Đời sống & Pháp luật gộp 10 số từ 32-41 (6/2 đến 17/2/2024)