Trong 5 năm (2021- 2025), khu di tích Chi Lăng thu hút ước đạt 150.000 lượt khách, lượng khách tăng trung bình từ 10 - 11%/năm; doanh thu du lịch đạt khoảng trên 40 tỷ đồng, tăng trung bình từ 10 - 11%/năm. Về công tác xúc tiến, quảng bá về di tích ở trong và ngoài tỉnh thành những chiến dịch lớn và đạt những hiệu quả nhất định.
Quần thể di tích Chi Lăng hiện còn lưu giữ nhiều bằng chứng lịch sử như thành cổ Chi Lăng (nơi Lê Sát, Lê Thụ đặt phục binh, chiếm cửa ải), Mã Yên Sơn (nơi Lê Sát chém đầu Liễu Thăng), Liễu Thăng Thạch (dưới chân núi Mã Yên, tương truyền Liễu Thăng sau khi chết đã hóa thành đá)... Quan trọng hơn, nơi đây hiện có không ít điểm văn hóa - tâm linh gắn với chiến thắng Chi Lăng xưa: Đền Quan Nàng, Thành Kho, Đấu Đong Quân, Làng Lìu, Làng Chung, Đền Mỏ Bạo, Đồi Chôn Ruột…
Song dường như hệ thống các di tích văn hóa - lịch sử tâm linh hiện có tại quần thể di tích Ải Chi Lăng chưa phản ánh hết ý nghĩa của nhiều chiến thắng đã diễn ra ở Chi Lăng, đặc biệt là những nhân vật lịch sử đã tham gia và làm nên chiến thắng Chi Lăng năm 1427. Đền Quan Nàng, đền Mỏ Bạo, đền Hổ Lai… số lượng khá “khiêm tốn”, quy mô nhỏ bé, việc làm rõ thần phả - đối tượng tôn thờ còn thiếu sót, chưa thật sự hợp lý và quan trọng hơn, hoạt động văn hóa - tâm linh tại một số địa điểm này chưa truyền tải đầy đủ thông điệp về một chiến thắng lịch sử to lớn, về sự trí dũng của cha ông, chưa đáp ứng được nhu cầu tâm linh của khách tham quan khi đến với Khu di tích Chi Lăng.
Cơ quan chức năng Lạng Sơn cho rằng việc phục dựng và trùng tu tôn tạo, xây dựng, phát triển di tích văn hóa - tâm linh ở Khu di tích Chi Lăng hiện tại là rất cần thiết: đứng trên góc độ tâm thức, việc tôn thờ có ý nghĩa tạo sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại. Chất keo kết dính đó chính là lòng biết ơn tiền nhân, phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn, tri ân các danh nhân, nhân vật lịch sử có đóng góp lớn lao trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, đặc biệt là chiến thắng Chi Lăng năm 1427.
Hệ thống di tích thờ phụng tướng lĩnh của các cuộc kháng chiến của dân tộc rất phong phú, đa dạng và hiện diện trên nhiều tỉnh, thành của tổ quốc. Điều này chứng tỏ mức độ lan tỏa và sự xác lập ổn định trong tâm thức văn hóa cộng đồng. Nhu cầu tâm linh của khách tham quan là điều đã được kiểm chứng tại nhiều di tích lịch sử - văn hóa trên cả nước.
Theo phân loại sơ bộ, số lượng thần linh được thờ phụng ở Việt Nam có thể chia thành hai nhóm đối tượng là “nhân thần” (nhân vật lịch sử hoặc thần thoại đã được “lịch sử hóa” như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương, Phù Đổng Thiên Vương) và “nhiên thần” (lực lượng tự nhiên). “Nhân thần” chiếm 70%, “nhiên thần” chiếm 30%. Trong tổng số “nhân thần” là nam (nam thần) thì thần núi, thần sông, thần biển, hoàng đế, võ tướng, nhân vật lịch sử chiếm 80%, còn lại là nghệ nhân, người nước ngoài và nô bộc.
Điều này cho thấy, trong hệ thống tín ngưỡng của người Việt, yếu tố “lịch sử” là một trong những định hướng chính để dẫn dắt tư duy thực hành tín ngưỡng của nhân dân. Khó có thể thống kê hết số lượng vĩ nhân được nhân dân tôn thờ bởi việc thờ cúng, bên cạnh yếu tố “định hướng” (triều đình, làng xã công nhận) còn mang tính “tự phát” (cộng đồng nhân dân đồng thuận lập đền thờ).
Đền Chi Lăng. NSNA: Bùi Thuận
Tuy nhiên, những nhân vật lịch sử đã tham gia và làm nên chiến thắng Chi Lăng năm 1427, từ lịch sử đến thần điện tại Chi Lăng còn rất “khiêm tốn”, mờ nhạt; không gian trận đánh lịch sử cũng đang được xác định khá khiêm tốn, chủ yếu bó hẹp trong khoảng 8km. Cần nghiên cứu xác định lại ranh giới khu di tích và điều chỉnh mở rộng khu vực bảo vệ đối với khu di tích Chi Lăng. Cần tăng cường hoạt động nghiên cứu các di tích, sưu tầm các di vật liên quan đến các nhân vật lịch sử, khảo cổ trên diện rộng để xác định toàn diện, chuyên sâu về “trận đồ Chi Lăng”; xây dựng hệ thống tư liệu những đối tượng thờ phụng, thần tích, thần sắc, thần phả, lịch lễ, nghi lễ… là những vấn đề lớn, quan trọng, phải tôn trọng lịch sử nên cần có sự tham gia, bàn thảo chuyên môn sâu và khoa học của nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia cùng các nhà quản lý văn hóa để việc xây dựng di tích văn hóa - tâm linh trong Khu di tích Chi Lăng được triển khai hiệu quả. Chúng tôi xin nêu ra đây một ví dụ, hiện tại, lễ hội chính được tổ chức ngày mùng 8 tháng Giêng, đối tượng thờ ở đền Đền Quỷ Môn Đại Vương là Thân Không Tướng Quân. Đền được vua sắc phong nhiều đời, hiện còn giữ được sắc phong năm Duy Tân 3 (1909), Khải Định 9 (1925) và đang tổ chức ngày hội vào ngày 8 tháng Giêng.
Tuy nhiên, chúng tôi sưu tầm được hai tư liệu: một là tờ khai của Lý Trưởng xã Chi Lăng tổng Quang Lang, huyện Châu Ôn là Lành Văn Cầm năm 1938, do Trường Viễn Đông Bác Cổ sưu tầm nghiên cứu: “tục lễ hội đền xưa nay là vào mùng 2 tháng Giêng; đến năm 1938, Đền Quan Trấn Ải (Đền Quỷ Môn Đại Vương) còn giữ được 3 đạo sắc phong”. Từ cứ liệu đó, chúng tôi tìm được tư liệu thứ hai là sắc phong Thành Thái nguyên niên (1889). Hai tư liệu này giúp chúng ta thấy, ngoài thờ Ngài Thân Không Tướng Công thì hệ thống thần phả ở Đền Quan Trấn Ải rất phong phú, đầu tiên là thờ thần linh quỷ núi linh thiêng, sau là thờ các nhân thần, nghĩa sĩ nhiều triệu đại đã có công dựng nước và đánh giặc giữ nước của dân tộc, điều này gợi mở cho chúng ta cần phải có nhiều nghiên cứu khoa học chuyên sâu về tầng tầng lớp lớp văn hóa lịch sử Chi Lăng trong mạch chảy văn hóa của dân tộc.
Nhà trưng bày chiến thắng Chi Lăng. NSNA: Bùi Thuận
Bên cạnh đó, việc phục dựng, nâng cấp một số lễ hội truyền thống tiêu biểu của địa phương thành lễ hội cấp vùng bao gồm: Lễ hội Na, chợ tình Bắc Thủy, Lễ hội “Xuống đồng” “Đập đất”. Bảo tồn và phát huy loại hình dân ca hát Lượn dân tộc Tày xã Bằng Mạc huyện Chi Lăng. Đặc biệt là nghiên cứu phục dựng đại lễ Đàn Kính Thiên và lễ hội đền Quan Trấn Ải (Đền Quỷ Môn Đại Vương) gắn với cầu Phù Kiều.
Nghiên cứu, xây dựng kịch bản lễ hội đảm bảo phù hợp với đặc điểm sự kiện, đối tượng tưởng nhớ và không gian các lễ hội; từng bước khẳng định tính riêng biệt, đặc thù của lễ hội của địa phương. Khôi phục và duy trì các hoạt động biểu diễn văn nghệ, trò chơi dân gian trong lễ hội; định kỳ tổ chức các cuộc liên hoan, hội thi, hội diễn, giao lưu văn hóa văn nghệ truyền thống, các cuộc thi đấu thể dục thể thao và trò chơi dân gian; tổ chức hội chợ, hội thi, triển lãm nhằm hỗ trợ quảng bá sản phẩm các làng nghề truyền thống, hỗ trợ công tác nghiên cứu mở rộng thị trường tiêu thụ.
Tăng cường liên kết với các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn trong và ngoài tỉnh; đẩy mạnh liên kết vùng (đặc biệt là các tỉnh Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Thủ đô Hà Nội, Tuyên Quang, Cao Bằng, Thái Bình là nơi có các di tích gắn với triều Lý, Trần, Lê sơ …) trong việc thực hiện quảng bá, xúc tiến du lịch.
Bảo vệ, phát huy và khai thác giá trị di tích một cách hợp lý, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đặc biệt là kinh tế du lịch. Tạo lập sự hài hòa giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng nông thôn mới với bảo vệ di sản văn hóa và phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
Đầu tư xây dựng giao thông, tuyến du lịch gắn với các di tích lịch sử văn hóa tín ngưỡng và truyền thống lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước cùng nhiều làng nghề thủ công truyền thống, văn hóa như mì cao Vạn Linh, nuôi ngựa bạch Quan Sơn, trưng cất tinh dầu hổi…
Có như vậy, trong giai đoạn 2026 đến 2030, vùng đất địa linh Chi Lăng sẽ phát huy hiệu quả nhiều giá trị của di tích xứng tầm di tích quốc gia đặc biệt; “công viên lịch sử ngoài trời” Chi Lăng thực sự là địa chỉ đỏ thu hút nhiều du khách, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh, của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ngựa Bạch xã Quan Sơn. NSNA Bùi Thuận. Khanh
Nghề cao khô Vạn Linh (mì khô). NSNA Bùi Thuận.
Na Chi Lăng. NSNA Bùi Thuận
Rừng Hồi Chi Lăng. NSNA Bùi Thuận.