Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Bí ẩn lời nguyền của điệu dân ca 36 năm mới hát một lần

(DS&PL) -

(ĐSPL) - Theo lời truyền lại, 36 năm làn điệu này mới được vang lên một lần, nếu ai vi phạm sẽ có những cái chết bất đắc kỳ tử hoặc sẽ gặp những chuyện xui xẻo ghê gớm...

(ĐSPL) - Ít ai biết, từ xa xưa đã tồn tại một làn điệu dân ca mang tính nghi lễ cổ cực kỳ độc đáo, đó là hát Dô. Tuy nhiên, theo lời truyền lại, 36 năm làn điệu này mới được vang lên một lần, nếu ai vi phạm sẽ có những cái chết bất đắc kỳ tử hoặc sẽ gặp những chuyện xui xẻo ghê gớm.
Món quà của Thánh: "Hát là chết"?
Theo chân bà Nguyễn Thị Lan, Chủ nhiệm CLB hát Dô (xã Liệp Tuyết, Quốc Oai, Hà Nội), tôi bước vào đền Khánh Xuân ở làng Đại Phu. Tại đây, chúng tôi được nghe bà kể về điệu dân ca nghi lễ cổ cực kỳ độc đáo và những điều bí hiểm xoay quanh lời hèm (lời nguyền - PV).
Bà Lan kể, đền thờ Đức Tản Viên có 18 đền nhưng duy nhất đền Khánh Xuân là có hát Dô. Tương truyền ngày xưa, sau khi mở hội hát Dô xong, phải cất sách, tráp đi và không ai dám nhắc đến hát Dô vì lời hèm “hát là chết” hoặc gặp nguy biến, thăng trầm, tao đoạn trong đời sống.
Thậm chí hèm còn được ghi nhớ bằng thơ để khuyên nhủ cháu con: "Con hát tuổi hạn hai mươi/Nếu qua độ ấy thì thôi hát hò/Bao giờ đến hội hát Dô/Thì còn phải kiếm gái tơ chưa chồng". Hèm hát Dô quy định 36 năm mới mở, người con gái chỉ được hát duy nhất một lần trong đời.
Cũng theo quy định kỳ bí này thì 36 năm, Liệp Tuyết mới được mở hội. Vào ngày quy định được hát mà không ra đình làng hát thì cũng sẽ bị "Thánh vật", bà Lan nói. Vậy quy định đó ở đâu ra? Bà Lan cho biết: "Từ bao đời nay truyền lại như thế và chúng tôi cũng chỉ biết là quy định thôi".
Bà Nguyễn Thị Lan - Chủ nhiệm CLB hát Dô.
Nỗi ám ảnh về lời nguyền được truyền từ đời này sang đời khác khiến cho làn điệu hát Dô có nguy cơ thất truyền. Theo tìm hiểu của PV báo Đời sống và Pháp luật, lễ hội cuối cùng được tổ chức vào năm 1926.
Từ đó trở đi, người dân nơi đây không mấy ai biết đến làn điệu, một câu hát Dô nữa.  Năm 1989, hiểu được giá trị của làn điệu hát cổ này nên Trung tâm Văn hoá tỉnh Hà Tây (cũ) và huyện đã có ý định phục hồi lại hát Dô.
"Lúc bấy giờ, tôi đang là Chủ tịch hội Phụ nữ xã, nghe cấp trên có ý định phục hồi lại hát Dô, tôi mừng lắm. Thế nhưng khi đi tìm người thì ai cũng sợ hát Dô không đúng thời gian sẽ bị chết. Thuyết phục mãi, ba cụ là Tạ Văn Lai, Đàm Thị Điều và Kiều Thị Nhuận là những người duy nhất biết về hát Dô mới nhận lời cộng tác khôi phục. Các cụ cho rằng, vào cái tuổi "gần đất xa trời" nên "thí nghiệm xem sự linh thiêng của hèm" ra sao?!", bà Lan phân trần. 
Theo bà Lan, không biết do trùng hợp hay bởi lời hèm có linh ứng mà nhiều người nhận lời khôi phục làn điệu hát Dô đã "ra đi" đầy uẩn khúc. Sau khi các cụ truyền lại những điệu hát cổ xong thì bỗng dưng nảy sinh ốm đau, bệnh tật rồi lần lượt qua đời.
Cụ Kiều Thị Nhuận là người nhận lời "cộng tác về khôi phục các bài hát Dô sớm nhất và rất tâm huyết trong việc truyền lại điệu hát cổ, được phong Nghệ nhân. Nhưng sau đó, cụ lâm bệnh rất nặng, có những triệu chứng thần kinh không bình thường. Trước đó, cụ rất minh mẫn. Cụ nằm liệt giường một thời gian dài rồi về với tổ tiên.
Bà Lan kể thêm: "Lúc bấy giờ, ban ngày, bà đi dạy nam thanh nữ tú hát Dô, tối đến bà lại nhờ cụ Điều truyền lại những bài hát mà cụ thuộc. Bình thường, cụ là người rất khỏe và còn rất minh mẫn. Nhưng không hiểu sao, có điều trùng hợp rất khó giải thích là sau khi truyền lại những điệu hát cổ xong, cụ bỗng dưng sinh ốm đau rồi qua đời đột ngột".
Không riêng cụ Lai, cụ Điều, cụ Nhuận mà ngay cả bà Lan cũng đã có lần "gặp chuyện mà chả hiểu sao". Một lần đi hội thảo, sau khi báo cáo xong về hát Dô, bà được một Giáo sư đề nghị hát một bài phục vụ đại biểu.
Câu lạc bộ hát Dô xã Liệp Tuyết, Quốc Oai, Hà Nội.
Giới thiệu xong bài mình sẽ hát, tự dưng lưỡi bà cứ cứng đơ không thể cất nên lời. Chứng kiến bà Lan bị như thế, khách và người chứng kiến ai cũng ngỡ ngàng. Nhiều lần dạy nam thanh nữ tú hát Dô ở đền Khánh Xuân, bà Lan để ý thấy có hai con bướm màu nâu đậu chập chờn trong đền, không bay đi.
Thoạt nghĩ, đó chắc là do Thánh ẩn linh nên bà Lan đã trình Thánh, xin được hát tiếng hát của Ngài và giữ gìn bản sắc phi vật thể quý báu này. Kể từ đó, bà không thấy hai con bướm xuất hiện nữa và cũng không ai gặp hạn của hèm hát Dô. 
 
Bí ẩn điệu hát 36 năm mới được hát một lần
Từ bao đời nay, người dân xã Liệp Tuyết vẫn truyền tai nhau về sự ra đời và bí ẩn của hèm hát Dô. Tương truyền rằng, một lần đi ngang qua vùng ven sông Tích (nay là xã Liệp Tuyết, Quốc Oai) và nghỉ chân tại làng Đại Phu, thánh Tản Viên - vị thần đứng đầu trong Tứ bất tử thấy ruộng đất phì nhiêu bèn gọi dân làng đến dạy cách lấy hạt lúa to làm giống gieo xuống ruộng. Ngài chọn thóc cho dân, dạy dân trồng trọt, cày cấy. Ngài còn gọi nam thanh nữ tú (trai chưa vợ, gái chưa chồng) đến dạy hát múa. Sau đó, Đức Thánh Tản ra đi, hẹn mùa lúa chín sẽ về.
Mùa đó, người dân Lạp Hạ bội thu nhưng chờ mãi không thấy ân nhân quay lại. Cũng từ đó, người dân biết làm ăn, thóc lúa đầy bồ. 36 năm sau, Đức Thánh Tản Viên trở lại. Thấy dân no ấm, Ngài đã cùng dân tổ chức ca hát ăn mừng và hát lại những bài hát (nay gọi là bài Dô) mà Ngài đã dạy dân thuở nào.
Để tạc dạ vị Đức Thánh ân nhân và lần hội ngộ này, dân đã xây đền thờ nhớ ơn Đức Tản Viên (đền Khánh Xuân bây giờ) và đề xuất, lấy thời gian Ngài quay lại, nghĩa là 36 năm mới tổ chức hội và tổ chức hát Dô một lần. Trước ý muốn của dân, Đức Thánh Tản Viên đã đồng ý và để dân cũng như mình không phạm húy về những điều đã giao kết nên khi đi, Ngài đã để lại một lời hèm. Quy định của lời hèm này rất ngặt nghèo: Chỉ nam thanh nữ tú mới được tham gia hát Dô. Lễ hội kết thúc thì tất cả những đồ vật dùng hát Dô như khăn, váy, túi đeo tay đựng trầu, sách ghi chép các làn điệu hát đều phải cất vào đền. Tuyệt đối không ai được nhắc đến, được cất tiếng hát và càng không được phép mở tráp ra xem nếu chưa đúng năm. Ai phạm vào điều cấm kỵ này sẽ bị "Thánh vật", đổ bệnh mà chết.
Bí ẩn lời nguyền của điệu dân ca 36 năm mới hát một lần.
Từ đó, theo quy ước và lời hèm Đức Thánh để lại này, lễ hội hát Dô ở Liệp Tuyết có định kỳ 36 năm mới tổ chức một lần. Cụ Nguyễn Văn Thắng (80 tuổi) chia sẻ: "Từ ngày mùng 10 đến 15 tháng Giêng (âm lịch), hội hát Dô bắt đầu rộn ràng. Cuộc đời một con người may mắn lắm mới được xem hội Dô và hát Dô hai lần, có những người chẳng bao giờ được thưởng thức cả.
Nội dung hát Dô phản ánh nhận thức của người con dân Việt về thiên nhiên và cả những mơ ước về một cuộc sống ấm no. Nó còn là những làn điệu trữ tình về tình yêu đôi lứa, về hạnh phúc gia đình và cả lễ giao thời phong kiến. Giai điệu, lời bài hát Dô, chúng tôi cũng không biết chính xác có từ bao giờ. Chỉ biết, nó như một truyền thuyết".
Lời hèm hát Dô bí hiểm là thế nhưng người dân Liệp Tuyết vẫn quan niệm rằng: "Quà Thánh rơi ở giữa làng/Phúc tôi "nhặt được phải năng giữ gìn"/Hai con một nách, không tiền/Hát Dô tôi biết còn "hèm thì... quên" nên hát Dô ở Liệp Tuyết đã trở lại trong mỗi hội xuân và còn đi ra cả nước ngoài.
Những cái chết được cho là uẩn khúc, những sự việc xảy ra nghĩ là bất thường không còn đem đến cho người hát Dô sự sợ hãi, bất an mà còn tạo cho làn điệu hát cổ 36 năm mới hát một lần một sự bí ẩn, linh thiêng hơn.
Được công nhận là địa chỉ Văn nghệ dân gian
Bây giờ, hát Dô (xã Liệp Tuyết, Quốc Oai, Hà Nội) đã được phục hồi. Từ năm 2000 đến nay, Câu lạc bộ hát Dô do bà Lan làm Chủ nhiệm vẫn duy trì 20 thành viên. Năm 2003, hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công nhận CLB hát Dô Liệp Tuyết là địa chỉ Văn nghệ dân gian; tặng Bằng khen cho bà Nguyễn Thị Lan vì đã có công khôi phục và duy trì hát Dô.
Giờ đây, ở Liệp Tuyết được đi hát Dô là cả niềm tự hào không chỉ bản thân mà cả dòng họ, bởi chỉ nam thanh nữ tú mới được tham gia. Thế nhưng, điều người dân còn trăn trở, còn mơ ước vẫn là tổ chức được một lễ hội Dô chính thức để không chỉ người dân trong nước mà người nước ngoài biết nhiều hơn đến điệu hát cổ độc đáo này.

Tin nổi bật