Thủy lấy các chứng nhận quyền sử dụng đất rồi giao cho đồng bọn đóng giả là vợ chồng chủ đất lên kế hoạch lừa đảo. Sau khi có tiền, Thủy chia cho đồng bọn tiêu xài...
Theo thông tin trên báo Công an nhân dân, chiều 19/3, Phòng Cảnh sát truy nã tội phạm (PC52) Công an tỉnh Bình Dương đã bắt giữ Huỳnh Thanh Thủy (46 tuổi, ngụ thị xã Tân Uyên, Bình Dương). Đối tượng trốn lệnh truy nã về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Bình Dương từ năm 2014.
Theo đó, Thủy làm nghề cò đất. Năm 2008, do làm ăn thua lỗ nên Thủy đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bà Huỳnh Thanh Thủy - Ảnh: V.D. / Tri thức trực tuyến |
Ngày 29/2/2008, với các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sẵn trong tay, Thủy phân công Nguyễn Văn Hiền và Trần Thị Thu Hà đóng giả “vợ chồng” chủ đất có tên trong giấy tờ đất đến gặp bà Trần Thị Ngọc Hường để cầm cố giấy tờ đất với lý do túng tiền làm ăn.
Do tin tưởng vào sự môi giới của Thủy, bà Hường làm giấy tờ cho đôi “vợ chồng” trên vay 100 triệu đồng. Sau đó, Thủy chia tiền cho Hiền và Hà tiêu xài.
Cùng thủ đoạn tương tự, Thủy còn lừa đảo 6 vụ khác chiếm đoạt hơn 900 triệu đồng. Tổng số tiền mà Thủy đã chiếm đoạt lên đến hơn 1 tỷ đồng.
Theo báo VOV, sau khi bị lừa đảo hơn 1 tỷ đồng, các nạn nhân tố cáo hành vi của Thủy và đồng bọn. Lúc này Thủy nhanh chóng bỏ trốn ở nhiều nơi. Đến ngày 18/3, các trinh sát của phòng Cảnh sát truy nã tội phạm đã bắt giữ được Thủy khi đang lẩn trốn tại TPHCM.
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009) 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
Tổng hợp