5 năm về trước, vụ án mua bán tầu tại Công ty Vận tải Biển Đông (Cty Biển Đông) đã được đưa ra xét xử và đã gây sự chú ý cũng như tốn không ít giấy mực của các cơ quan ngôn luận. Qua 2 cấp tòa (Sơ thẩm do Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội xử, với bản án số 79/2014/HSST ngày 28/2/2014 và Bản án phúc thẩm 336/2014/HSPT ngày 11/07/2014 do Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội thụ lý); tuy nhiên, Tòa phúc thẩm đã tuyên hủy các quyết định của bản án sơ thẩm số 79/2014/HSST ngày 28/2/2014 của TAND TP. Hà Nội và trả lại hồ sơ cho VSKND TP Hà Nội giải quyết theo thủ tục chung. Nhiều bị cáo liên quan trong vụ án này đã làm đơn kháng cáo, trong đó có Ngô Văn Nhuận – Nguyên Phó kiểm toán trưởng KTNN KV7. Vậy thực chất các bản án ra sao, các bị cáo trong vụ án này có bị oan sai hay không?
Chúng tôi xin đăng tải lại tình tiết vụ án cũng như bản chất vụ việc và những dấu hiệu sai phạm về cả quá trình điều tra, truy tố và xét xử, đặc biệt nhất là với Bản án hình sự sơ thẩm mang số 79/2014/HSST ngày 28/2/2014 của Tòa án Nhân dân TP. Hà Nội.
Bài 1: Góc khuất một vụ án
Trong Vụ án tại Cty Biển Đông, từ khi cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an) ký Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “tham ô tài sản” xảy ra tại Cty Biển Đông và bắt tạm giam một loạt lãnh đạo chủ chốt rồi Cơ quan ANĐT Bộ Công an vào điều tra và hoàn thành hồ sơ, truy tố và xét xử đã cho thấy về thực chất việc ký hợp đồng lập các Báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT) dự án mua bán tàu cũ do Cty Biển Đông thực hiện cho đến nay không hề gây thất thoát tiền của của nhà nước. Vậy tại sao các lãnh đạo của Cty Biển Đông trong đó có kiểm toán viên Ngô Văn Nhuận vẫn dính vào vòng lao lý?
Hành trình một vụ án
Ngày 16/12/2005, Bùi Quốc Anh, Giám đốc Cty Biển Đông ký tờ trình số 1471/BD-Ttcont đề nghị Tổng Công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) phê duyệt chủ trương lập dự án mua tầu chở dầu sản phẩm cũ có tải trọng từ 20.000 đến 55.000 DWT. Ngày 20/12/2005, Vinashin có văn bản số 2362 đồng ý cho Cty Biển Đông mua 01 tàu chở dầu đã qua sử dụng với quy định: Tuổi tàu dưới 10 tuổi, nơi đóng Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, trọng tải từ 20.000 đến 55.000 DWT.
Công ty Vận tải Biển Đông và những góc khuất của một vụ án cần làm rõ |
Sau khi có văn bản chấp thuận của Vinashin, Cty biển Đông đã thuê Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy (Cty VFC) lập Báo cáo nghiên cứu khả thi (BCNCKT) cho dự án mua tàu và thỏa thuận là khi nào dự án được phê duyệt và Cty Biển Đông mua được tàu thì mới làm thủ tục thanh toán tiền cho VFC. Tháng 5/2006 dự án được lập xong và bàn giao cho Cty Biển Đông để trình Vinashin phê duyệt.
Ngày 24/5/2006, Chủ tịch HĐQT Vinnashin ký quyết định số 751/CNT-KDĐN phê duyệt BCNCKT dự án mua tàu chở dầu sản phẩm cũ, với tổng mức đầu tư 37.499.066 USD, trong đó hạng mục lập BCNCKT là 94.180 USD Mỹ. Theo hợp đồng số 01/2006/VNSS-VFC ký ngày 5/1/2006, hai bên thống nhất giá trị hợp đồng cho BCNCKT là 1.504.531.906 đồng (bao gồm VAT – mức giá đảm bảo 100% giá trần do nhà nước qui định). Ngày 5/10/2006, ông Bùi Quốc Anh và ông Hoàng Gia Hiệp – Phó tổng giám đốc VFC ký Biên bản nghiệm thu và quyết toán hợp đồng đã ký.
Ngày 4/12/2006, Cty Biển Đông đã chuyển trả vào tài khoản cho Cty VFC đủ số tiền đã ký trong hợp đồng. Điều đáng nói là sau khi Cty VFC ký hợp đồng BCNCKT với Cty Biển Đông ngày 5/1/2006 xong, ngày 10/1/2006 bên VFC mới ký hợp đồng số 01/2006/TMN-VFC với Công ty TNHH Tân Minh Nguyệt (Cty TMN) có trụ sở tại 304 đường Trần Khát Chân – Hà Nội do ông Bùi Tiến Hải là Giám đốc để thực hiện một phần BCNCKT trong khuôn khổ lập dự án đầu tư mua tàu Energy có tổng giá trị hợp đồng là 1.155.000.000 đồng. Sau đó, các ngày 5/9/2006 đến 13/2/2007, Cty VFC đã chuyển đủ số tiền trên vào số tài khoản 1152029368017 của Cty TMN lập tại một ngân hàng tai Hà Nội.
Sau khi tàu Energy được mua về và đưa vào hoạt động đã mang lại hiệu quả cao, sau 2 năm kinh doanh đã bán lại cho nước ngoài thu về lợi nhuận hơn 10 triệu USD; trong các năm 2006, 2007 và 2008 Cty Biển Đông tiếp tục làm tờ trình, công văn đề nghị Tập đoàn Vinashin duyệt chủ trương mua tàu chở dầu và vận chuyển container và cho phép Cty Biển Đông được lập BCNCKT đối với tàu Victory (47.084 DWT, tàu Vạn Hưng (7.032 DWT), tàu Melody (45.937 DWT), tàu Biển Đông Star (9.108 DWT).
Đơn thư kêu cứu và 1 số văn bản liên quan đến vụ án |
Các tờ trình mua 04 tàu trên đều được Tập đoàn Vinashin phê duyệt. Để giảm chi phí mua tàu, Cty Biển Đông đã thuê trực tiếp Cty TMN làm BCNCKT cho 4 tàu trên bằng 4 hợp đồng BCNCKT, bao gồm: Hợp đồng số 150207/TMN-BDS ngày 15/2/2007 cho tàu Victory với giá trị hợp đồng là 1.763.000.000 đồng; Hợp đồng số 2705/TMN-BDSC ngày 29/5/2007 cho tàu Vạn Hưng với giá trị hợp đồng là 281.000.000 đồng; Hợp đồng số 1012207/TMN-BDSC ngày 10/12/2007 cho tàu Melody với giá trị họp đồng là 1.134.000.000 đồng và Hợp đồng số 1012207/TMN-BDSC ngày 15/12/2008 cho tàu Biển Đông Star với giá trị hợp đồng là 449.6000.000 đồng.
Điều đáng quan tâm là 4 hợp đồng BCNCKT cho 4 tàu đều được Cty Biển Đông ký với Cty TMN với giá trị chỉ bằng 70% mức giá trần do nhà nước qui định trong việc chi phí cho BCNCKT đối với việc mua sắm tàu biển. Khi các thủ tục mua 4 con tàu hoàn tất, Cty Biển Đông đã làm thủ tục nghiệm thu và quyết toán chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của Cty TMN (cũng là số tài khoản mà Cty VFC đã chuyển tiền hợp đồng BCNCKT tàu Energy của Cty TMN trước đó). Tuy nhiên, không hiểu sao, sau đó, cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an) ký Quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “tham ô tài sản”, Cơ quan ANĐT Bộ Công an đã vào cuộc để điều tra.
Sao phải hủy án sơ thẩm?
Sau khi TAND TP. Hà Nội tuyên bản án số 79/2014/HSST ngày 28/2/2014, tất cả các bị cáo đều làm đơn kháng cáo và kêu oan. Các bị cáo cho rằng số tiền mà các bị cáo nhận từ Cty VFC, hay Cty TMN là tiền công sức viết lập dự án BCNCKT. Không những vậy trong vụ án này các bị cáo cho rằng không có bên nào bị thiệt hại mà đã đem lại lợi ích cho nhà nước hơn một tỷ đồng do ký hợp đồng BCNCKT thấp hơn 30% so với qui định của nhà nước.
Trước đơn kháng cáo của các bị cáo, ngày 11/7/2014, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại Hà Nội tiếp tục đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, Tòa phúc thẩm đã tuyên hủy các quyết định của bản án sơ thẩm số 79/2014/HSST ngày 28/2/2014 của TAND TP. Hà Nội và trả lại hồ sơ cho VSKND TP Hà Nội giải quyết theo thủ tục chung với lý do: Việc điều tra chưa đầy đủ, vụ án không có thiệt hại, không có nguyên đơn dân sự ...
Trong vụ án này, Tòa sơ thẩm đã dựa trên những căn cứ để truy tố các bị cáo được cho rằng: Sau khi Cty Biển Đông mua được tàu Energy, Hoàng Gia Hiệp gặp Bùi Quốc Anh tại Cty Biển Đông đề nghị thanh toán tiền lập BCNCKT tàu Energy đã ký kết. Bùi Quốc Anh đặt vấn đề được Hiệp đồng ý là Cty Biển Đông sẽ chuyển đủ số tiền 1,5 tỷ đồng như trong hợp đồng đã được ký kết, nhưng sau khi trả tiền cho Cty VFC thì Cty VFC phải rút ra 750.000.000 đồng chuyển trả cho Cty Biển Đông.
Để hợp thức việc rút tiền chuyển trả cho Cty Biển Đông các bị cáo Anh, Hiệp, Bích Thủy ký hợp đồng khống với nhà thầu phụ rồi chuyển tiền cho Cty Biển Đông qua nhà thầu phụ (chính là Cty TMN). Cơ quan ANĐT cũng cho rằng Bùi Quốc Anh đã thống nhất với Bích Thủy phối hợp với Hiệp.
Bích Thủy đã nhờ Ngô Văn Nhuận (là kiểm toán viên đã có thời gian kiểm toán tại Cty Biển Đông) tìm đơn vị có tư cách pháp nhân ký hợp đồng nhằm hợp thức hóa hồ sơ, chứng từ thanh toán cho dự án thực hiện rút tiền cho Cty Biển Đông. Nhuận đã nhờ được Nguyễn Minh Ngọc, là bạn học cũ tại Trường Đại học Tài chính Kế toán mua hóa đơn GTGT. Sau đó Ngọc có nhờ Nguyễn Thúy Hạnh, Hạnh nhờ một người có tên là Thành, làm nghề buôn bán, kinh doanh ngoài chợ Hòa Bình (chợ Trời) mua hóa đơn và đóng dấu hợp thức hóa.
Thành đã cấp cho Hạnh giấy đăng ký kinh doanh của Cty TMN để chuyển cho Hiệp ký hợp đồng khống số 01/2006/TMN-VFC ngày 10/1/2006 với giá trị 1.155.000.000 đồng. Cty VFC đã chuyển tiền cho Cty TMN qua tài khoản ngân hàng. Tài khoản này do Nhuận nhờ Ngọc mở để Nhuận rút tiền cho Cty VFC. Sau khi rút được tiền các đối tượng chia nhau…
Cũng theo bản án sơ thẩm số 79/2014 thì đối với BCNCKT của 4 con tàu mua sau các bị cáo đã tìm đơn vị có tư cách pháp nhân ký hợp đồng BCNCKT, nhằm hợp thức hóa hồ sơ thanh toán, rút tiền đề ngoài sổ sách, chi ngoại giao cho Cty Biển Đông. Đối với Cty TMN là công ty có thật, do ông Bùi Tiến Hải làm giám đốc, công ty này không có chức năng tư vấn, lập dự án BCNCKT mua bán tàu. Các đối tượng hợp thức bằng giấy tờ giả, gồm: Giấy đăng ký kinh doanh của Cty TMN, giấy tờ đề nghị thanh toán TMN, hóa đơn GTGT mà VFC sử dụng làm thủ tục thanh toán cho Cty TMN là hóa đơn Cty TMN báo mất, các tài liệu trên đều là giả do Nguyễn Thúy Hạnh trú tại số 5 Phù Đổng Thiên Vương, Hai Bà Trưng, thông qua đối tượng Thành (buôn bán ở Chợ Trời) làm giả. Tài khoản số 11520293068017 mang tên Cty TMN là do Ngô Văn Nhuận yêu cầu Nguyễn Minh Ngọc mở, giả danh Cty TMN để nhận tiền và rút tiền do VFC chuyển sang. (Nguyễn Minh Ngọc đang là Kiểm toán viên hiện đang công tác tại Vụ 7 của Kiểm toán Nhà nước)
Còn tiếp....
Nhóm PV