Đóng

Vì sao đột quỵ dễ tái phát?

  • Thùy Dung (T/H)
(DS&PL) -

Không kiểm soát tốt bệnh nền, tự ý ngưng thuốc dự phòng, căng thẳng, thiếu ngủ, và tiếp tục hút thuốc là những yếu tố chính làm tăng nguy cơ tái phát đột quỵ.

Vnexpress dẫn lời TS.BS Nguyễn Thị Minh Đức, Trưởng khoa Thần kinh, Trung tâm Khoa học Thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP. HCM, cho biết tỷ lệ tái phát trong năm đầu sau đột quỵ khoảng 10% và tiếp tục tăng cao hơn trong những năm tiếp theo nếu người bệnh không kiểm soát tốt các yếu tố nguy cơ như trên.

"Bệnh có thể tái phát ở cả bệnh nhân đã phục hồi hoàn toàn sau lần đầu đột quỵ", bác sĩ Đức nói, thêm rằng đột quỵ những lần sau thường nguy hiểm hơn lần đầu, di chứng nặng nề như liệt, mất ngôn ngữ hoặc tử vong.

 

Có nhiều yếu tố từ lối sống đến bệnh lý thúc đẩy đột quỵ tái phát.

Không kiểm soát bệnh nền

Tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu và bệnh tim mạch mạn tính là những "thủ phạm" chính làm tổn thương mạch máu não. Huyết áp không ổn định khiến thành mạch dễ nứt vỡ, trong khi tiểu đường và mỡ máu cao thúc đẩy xơ vữa, hình thành mảng bám và huyết khối. Nếu không được kiểm soát, những yếu tố này có thể làm nguy cơ tái phát đột quỵ tăng gấp 2-4 lần. Người từng đột quỵ cần đo huyết áp hàng ngày, kiểm tra đường huyết và mỡ máu định kỳ, duy trì chỉ số đường huyết trung bình trong 2-3 (HbA1c) dưới 7%, LDL-cholesterol dưới 100 mg/dL theo khuyến cáo.

Bỏ dở điều trị dự phòng

Sau đột quỵ, bệnh nhân thường phải dùng thuốc chống đông hay thuốc kháng kết tập tiểu cầu tùy nguyên nhân và theo chỉ định của bác sĩ. Đồng thời, người bệnh cần duy trì thuốc hạ huyết áp hoặc thuốc hạ mỡ máu để kiểm soát bệnh nền. Tuy nhiên, bác sĩ Đức cho biết không ít người tự ý ngưng thuốc khi cảm thấy sức khỏe ổn định hoặc lo ngại tác dụng phụ khiến mạch máu não không được bảo vệ, nguy cơ hình thành cục máu đông hoặc tái tắc mạch tăng cao. Ngay cả khi người bệnh cảm thấy khỏe mạnh, thuốc điều trị dự phòng vẫn đóng vai trò sống còn để ngăn ngừa tái phát.

Hút thuốc, uống bia rượu

Thói quen hút thuốc, ngay cả thuốc lá điện tử, uống rượu bia, sử dụng các chất cấm, ăn mặn, nhiều chất béo xấu hoặc đồ chế biến sẵn đều làm tăng gánh nặng cho hệ tim mạch - thần kinh. Người bệnh sau đột quỵ cần duy trì chế độ ăn nhiều rau xanh, cá, hạt ngũ cốc nguyên cám và hạn chế chất kích thích.

Thừa cân, béo phì, ít vận động

Béo phì đi kèm với tăng huyết áp, kháng insulin và rối loạn lipid máu đều làm tăng nguy cơ tái phát đột quỵ. Bác sĩ Minh Đức khuyên người từng bị đột quỵ nên duy trì cân nặng hợp lý, giữ chỉ số BMI từ 18,5 đến 23, tập thể dục ít nhất 150 phút mỗi tuần với các bài tập nhẹ nhàng... giúp cải thiện lưu thông máu, kiểm soát huyết áp, giảm căng thẳng.

Căng thẳng và thiếu ngủ kéo dài

Theo bác sĩ Minh Đức, thiếu ngủ dưới 6 tiếng mỗi đêm cũng liên quan đến nguy cơ tái phát đột quỵ cao hơn do ảnh hưởng đến quá trình phục hồi của não bộ. Stress mạn tính khiến cơ thể liên tục tăng tiết hormone cortisol, gây rối loạn chuyển hóa, tăng huyết áp và nhịp tim nhanh.

Người bệnh sau đột quỵ cần duy trì nhịp sống điều độ, ngủ đủ 7-8 tiếng mỗi đêm, thực hiện các kỹ thuật thư giãn như thiền, hít thở sâu, nghe nhạc nhẹ. Nếu mất ngủ kéo dài, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phù hợp.

3 thay đổi thói quen ăn uống giúp tránh xa đột quỵ 

Chế độ ăn Địa Trung Hải tốt cho tim, ngăn ngừa đột quỵ

Theo Sức khỏe & Đời sống, chế độ ăn được khoa học chứng minh là có khả năng giảm đáng kể nguy cơ đột quỵ chính là chế độ ăn Địa Trung Hải. Chế độ này tập trung vào các nhóm thực phẩm có nguồn gốc thực vật và chất béo lành mạnh.

Nghiên cứu cho thấy, chế độ ăn Địa Trung Hải giúp giảm 30% nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch. Lợi thế của các thức ăn trong chế độ ăn Địa Trung Hải giàu chất chống oxy hóa và chất béo không bão hòa, ảnh hưởng tốt tới sức khỏe tim mạch, cải thiện mức huyết áp.

Chế độ ăn Địa Trung Hải tập trung vào thực phẩm thực vật và ngũ cốc nguyên hạt, tăng cường chất béo lành mạnh và chất xơ hòa tan có lợi cho hệ vi sinh đường ruột hoạt động hiệu quả.

Trái cây và rau củ: Nên ăn đa dạng và đầy đủ các loại trái cây và rau củ hàng ngày. Đây là nguồn cung cấp vitamin, khoáng chất và chất chống oxy hóa dồi dào. Bạn có thể bắt đầu bằng việc thử một loại trái cây mới mỗi tuần hoặc thêm nhiều loại rau thái nhỏ vào súp, món hầm.

Ngũ cốc nguyên hạt và đậu: Các loại ngũ cốc nguyên hạt (như yến mạch, lúa mạch) và các loại đậu (như đậu gà, đậu mắt đen) rất giàu chất xơ hòa tan. Chất xơ này giúp làm chậm quá trình tiêu hóa, tăng cảm giác no và quan trọng là giúp giảm cholesterol LDL ("cholesterol xấu") trong máu, một yếu tố nguy cơ chính gây đột quỵ.

Ưu tiên chất béo lành mạnh: Chất béo tốt có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tim mạch và mạch máu tổng thể. Các loại hạt (óc chó, hạnh nhân), quả bơ, dầu ô liu nguyên chất là những nguồn cung cấp chất béo không bão hòa tuyệt vời. Nghiên cứu cho thấy, việc ăn một lượng nhỏ các loại hạt (khoảng 28 g mỗi ngày) có thể giúp giảm viêm, hạ huyết áp và hỗ trợ sức khỏe mạch máu.

Tăng cường vi chất dinh dưỡng quan trọng với sức khỏe tim mạch

Bên cạnh các nhóm thực phẩm chính, một số vi chất và thành phần cũng đóng vai trò then chốt trong việc phòng ngừa đột quỵ.

Kali có tác dụng hạ huyết áp, ngừa đột quỵ

Kali là một khoáng chất thiết yếu có khả năng giúp hạ huyết áp, một yếu tố nguy cơ hàng đầu dẫn đến đột quỵ (khoảng 78% số người đột quỵ là do tăng huyết áp).

Thực phẩm giàu kali: Chuối, đậu, bơ, kiwi, xoài, dưa lưới và khoai lang.

Thảo mộc và gia vị giúp giảm nguy cơ tim mạch

Thay vì dùng muối để tạo vị đậm đà, bạn có thể tận dụng các loại thảo mộc và gia vị tự nhiên. Nhiều loại thảo mộc như kinh giới cay, hương thảo, cỏ xạ hương và các loại gia vị như quế, nghệ, gừng đã được chứng minh có tác dụng giảm nguy cơ tim mạch.

Hạn chế muối và đường tinh luyện là cách tốt để bảo vệ tim

Hạn chế muối và đường tinh luyện là một trong những thay đổi lối sống quan trọng nhất để giảm nguy cơ đột quỵ.

Hầu hết lượng natri chúng ta ăn vào đến từ thực phẩm chế biến, đóng gói và các bữa ăn tại nhà hàng, chứ không phải từ muối bạn thêm vào khi nấu. Thông thường, nên ăn ít hơn 2.300 mg natri mỗi ngày. Những người có nguy cơ cao (như người mắc đái tháo đường) cần giới hạn nghiêm ngặt hơn, chỉ 1.500 mg mỗi ngày.

Tin nổi bật