Hiện nay, để được vay tiền ngân hàng thông thường sẽ có những biện pháp bảo đảm như thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh.
Đối với thế chấp tài sản, tại Điều 317 Bộ luật dân sự 2015 có quy định rõ: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp”.
Theo quy định luật đất đai cũng như Bộ luật dân sự, đối với giao dịch chuyển nhượng bất động sản, chỉ có hiệu lực kể từ điểm đăng ký.
Ảnh minh họa.
Như vậy, nếu giao dịch về đất đai (chuyển nhượng) chưa được thực hiện trên thực tế mà chỉ dừng lại ở việc “dự định” thì rõ ràng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất chưa được chuyển giao nên hoàn toàn không thể thực hiện việc thế chấp tài sản để vay tiền.
Tuy nhiên, theo quy định Bộ luật dân sự 2015, trong trường hợp tài sản chưa được chuyển giao nhưng chủ sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng ý thực hiện nghĩa vụ thay cho bên vay thông qua hình thức “bảo lãnh” thì việc vay tiền ngân hàng có thể thực hiện được.
Theo đó, tại Điều 335 Bộ luật dân sự 2015 có quy định rõ: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.