Trung Quốc liên tục bay thử hai MBCĐ thế hệ 5 J-20 và J-31, lại đang phát triển hai MBCĐ thế hệ 4 J-10B và J16, tại sao vẫn phải mua Su-35?
Trung Quốc đã liên tục bay thử nghiệm thành công hai chiến cơ thế hệ 5 J-20 và J-31, lại đang nghiên cứu chế tạo hai loại chiến đấu cơ thế hệ 4 xuất sắc J-10B và J16, tại sao vẫn còn mua Su-35? Vậy mục đích chính để Bắc Kinh phải tìm mọi cách để mua Su-35 rốt cuộc là gì?
Hệ thống điện tử hàng không của Trung Quốc không thể mạnh hơn Su-35
Radar quét mảng pha điện tử chủ động (Active Electronically Scanned Array radar-AESA) "Irbis-E" được trang bị trên chiến cơ Su-35S luôn là niềm tự hào số 1 của Nga.
Radar mảng pha chủ động IRBIS-E (AESA), cự ly phát hiện máy bay thông thường lên tới 350km, tàu chiến cỡ lớn là 400km. Đặc biệt nó có khả năng phát hiện các loại máy bay tàng hình có bề mặt tán xạ radar dưới 3m ở khoảng cách xa 100 - 150 km.
Tuy nhiên, chuyên gia Trung Quốc cho rằng, loại radar này có thể thăm dò ở cự ly lên đến 400km, nhưng con số này chỉ dành cho những máy bay ném bom lớn, kiểu cũ, còn đối với những chiến cơ bình thường thì chỉ ở mức 150-200km, đối với chiến cơ thế hệ 3,5 và 4 thì chỉ trong vòng 100km.
Trên thực tế "Irbis-E" vẫn là radar quét mảng pha điện tử bị động (PESA- Passive Electronically Scanned Array radar), nên trình độ kỹ thuật vẫn lạc hậu, chỉ có ưu điểm là thăm dò ở khoảng cách cực xa (nhưng không rõ ràng). Đã thế, "mắt thần nhìn xa" này lại có đặc điểm là không quan sát được tầm gần, trong khi J-10B của Trung Quốc đã được trang AESA rất tiên tiến.
Su-35 được trang bị hệ thống tìm kiếm và theo dõi hồng ngoại (IRST) OLS-35, là một hệ thống tiêu chuẩn được đặt trên hầu hết tất cả các máy bay chiến đấu của Nga. Hệ thống này có thể cùng lúc theo dõi 4 tín hiệu hồng ngoại ở các băng tần khác nhau, cự ly thăm dò là 90km (mục tiêu phía sau) và 50km (mục tiêu phía trước).
Một số chuyên gia quân sự Trung Quốc cho rằng, cự li hiệu quả của thiết bị đo đạc laser trên Su-35 là 20km với mục tiêu trên không và 30km với mục tiêu mặt đất. Tính năng của hệ thống này trên cũng “mới chỉ tiệm cận” hệ thống mà Trung Quốc đã nghiên cứu chế tạo, vì thế không nhất thiết phải mua.
Tuy nhiên, các chuyên gia công nghệ Nga và phương Tây lại không nghĩ là như vậy. Họ cho rằng, các radar mảng pha chủ động do Trung Quốc sản xuất chất chỉ được mẽ bề ngoài còn chất lượng rất kém, đây chính là một trong những nguyên nhân làm J-10B vẫn chưa được trang bị chính thức mặc dù đã bay thử 5 năm liền.
Trung Quốc nhắm tới động cơ phản lực vector 117S cực kỳ tiên tiến
Su-35 thực ra không phải là tiêm kích thế hệ 4 đúng nghĩa, nhưng động cơ của nó đích thị là loại động cơ phản lực vector tiên tiến thế hệ thứ 4. Vậy loại động cơ này có những ưu điểm gì?
Su-35 được trang bị động cơ tuốc bin phản lực cánh quạt 117S (AL-41F-1S) mới nhất của công ty Saturn, thuộc thế hệ AL-41F (được thiết kế trên khung động cơ AL-31F) nhưng lực đẩy lên tới 14.500kg (hơn thế hệ AL-31F khoảng 2000kg), tốc độ lớn nhất đạt 2.25 mach.
Động cơ AL-41F-1S thuộc dòng 117S được cải tiến chuyên sâu, là động cơ vector lực đẩy hàng đầu thế giới, áp dụng kĩ thuật tuốc bin thấp áp kết hợp tuốc bin cao áp, đồng thời còn sử dụng hệ thống kiểm soát kỹ thuật số tinh vi SDU-D. Những kĩ thuật mới này giúp lực đẩy tổng thể của động cơ tăng lên 16\%.
Thông thường, động cơ là một trong những bộ phận tổn hại nhất của chiến đấu cơ, tần suất bảo dưỡng sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng tác chiến tổng thể. Nhưng tuổi thọ của động cơ 117S lên đến 4000 giờ, cao gấp đôi so với động cơ cùng loại. Khoảng thời gian bảo dưỡng cách nhau 1000 giờ, dài gấp đôi sản phẩm tương tự, điều này đã góp phần nâng cao cực đại khả năng hoạt động và chiến đấu của Su-35.
Theo dự đoán, đến năm 2020 khả năng chiến đấu của tiêm kích thế hệ 4 Trung Quốc mới hoàn thiện, trong 6 năm tới, chỉ dựa vào J-10, J-11 để chống lại F-22 của không quân Mỹ quả là rất khó khăn, vậy nên Trung Quốc buộc phải tạm thời bổ sung một loại chiến đấu cơ hiện đại hơn. Nhưng năng lực sản xuất máy bay chiến đấu trong nước không thể đáp ứng nhu cầu của không quân Trung Quốc.
Giới truyền thông cho biết, sản lượng hàng năm của J-10, J-11B không đến 48 chiếc, cộng thêm nhu cầu sản xuất J-15, J-16, nên số lượng máy bay mới tự chế tạo ít ỏi, cần phải nhập thêm chiến cơ của Nga. Hơn nữa sở hữu động cơ phản lực vector hiện đại của Nga là tín hiệu tốt cho máy bay chiến đấu thế hệ 4 của Trung Quốc.
Nhờ có động cơ 117S của Su-35, J-20 có thể trở thành tiêm kích thế hệ 4 thực sự, có thể bay hành trình với tốc độ siêu âm đúng như tiêu chí của nó. Trung Quốc cũng muốn hấp thụ được công nghệ của động cơ vector Su-35, để hỗ trợ cho việc nghiên cứu chế tạo động cơ phản lực WS-15, giúp tiêm kích J-20 sớm được đưa vào trang bị cho không quân Trung Quốc.
Khả năng tấn công tên lửa độc đáo, có thể mang vũ khí hạt nhân
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc Trung Quốc phải mua máy bay chiến đấu Su-35 của Nga là khả năng tấn công ngược rất mạnh trong không chiến mà chưa một loại máy bay Trung Quốc nào có được. Điều này được Đại tá Ngô Quốc Huy - Phó giáo sư Học viện quốc phòng, phi công cao cấp của không quân Trung Quốc chỉ ra.
Theo ông Ngô, nguyên nhân quan trọng nhất để Trung Quốc mua máy bay chiến đấu Su-35 của Nga là, trong điều kiện không chiến hiện đại, các máy bay tàng hình phát triển, dẫn đến việc phát hiện ra nhau là rất khó khăn nên tác chiến trên không chủ yếu diễn ra theo hình thái cận chiến, mà Su-35 vừa có khả năng tấn công tên lửa rất mạnh vừa có tốc độ cực cao và tính năng bay cực kỳ ưu việt.
Theo ông Ngô Quốc Huy phân tích, trong không chiến, đặc biệt là hỗn chiến từ trước đến nay, chủ yếu là các tên lửa tìm nhiệt tấn công từ phía sau và pháo trên máy bay, rồi mới đến các loại tên lửa tiên tiến hiện nay. Trong không chiến hiện đại máy bay nào có khả năng phóng tên lửa tấn công ngược về phía sau thì sẽ chiếm ưu thế cực lớn trong không chiến.
Máy bay có khả năng tấn công ngược về phía sau chủ yếu do hệ thống radar quan sát phía sau tiên tiến. Khi tấn công mục tiêu phía sau, tên lửa phải có hệ thống lực đẩy vector và độ quá tải lớn, năng lực cơ động rất mạnh để có thể chuyển hướng và tăng tốc.
Đồng thời thiết bị quan sát ở mũ phi công phải có góc quan sát lớn, tên lửa phải được thả rơi theo phương thẳng đứng, điều này sẽ làm tên lửa có tính cơ động rất mạnh.
Các loại máy bay chiến đấu từ thế hệ thứ 4 trở lên cơ bản đều có khả năng tấn công phía sau, nhưng khả năng này ở Su-35 là rất mạnh, ví dụ như tên lửa R-73M2, R-74ME… đều có khả năng hạ sát các đối thủ bám theo máy bay, các phiên bản tiên tiến của AIM-9X của Mỹ cũng đều có khả năng này.
Cuối cùng, ông Ngô Quốc Huy nhấn mạnh, việc Trung Quốc mua máy bay chiến đấu Su-35 chính là xuất phát từ tính năng tấn công toàn diện của nó. Cùng với vận tốc cực nhanh và tính linh hoạt cao, Su-35 có khả năng đương đầu với cả các loại máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5.
Ông Ngô cũng hé lộ một vấn đề là hiện Bắc Kinh cũng đang chế tạo những phiên bản tên lửa không đối không hiện đại, với đầy đủ tính năng tấn công tổng hợp. Vì vậy, có thể rút ra kết luận là Trung Quốc mua Su-35 và các loại vũ khí của nó còn có mục đích để tham khảo và học hỏi công nghệ tên lửa chiến thuật không đối không.
Ngoài ra, ngày 15-5 vừa qua, Thượng tướng Viktor Esin, nguyên Tham mưu trưởng Lực lượng tên lửa chiến lược Nga cũng đã đưa ra cảnh báo là rất có thể Trung Quốc có thể sẽ chế tạo phương tiện mới mang vũ khí hạt nhân chiến thuật dựa trên cơ sở máy bay chiến đấu Su-35 mà họ sẽ mua của Nga.
Mua Su-35 để thắt chặt quan hệ hữu nghị Nga-Trung
Trong nhiều năm qua, hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Bắc Kinh - Moscow là một trong những nội dung then chốt trong hợp tác chiến lược của Trung Quốc. Đây là mối quan hệ hai bên cùng có lợi nhưng cũng thể hiện sự gắn bó mật thiết và lâu dài trong quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Trong những năm 90 của thế kỷ trước, nước Nga khi gặp phải "cú sốc kinh tế" sau khi Liên bang Xô viết tan rã, đã bán vũ khí cho quân đội Trung Quốc để thu ngoại tệ, đồng thời đảm bảo cho cơ sở công nghiệp quân sự Nga tiếp tục được duy trì, Bắc Kinh cũng có được công nghệ và vũ khí tinh vi cần thiết. Từ đó đến nay, năng lực quân sự của Trung Quốc liên tục được nâng cao.
Những năm gần đây, Bắc Kinh chủ yếu hợp tác kỹ thuật và mua động cơ máy bay, tên lửa chiến thuật nhưng hiếm khi kí kết với Moscow những đơn hàng vũ khí lớn. Nền kinh tế Nga cũng phục hồi nhanh chóng, dự trữ rất nhiều ngoại hối, và có khả năng thu hút các dự án quy mô lớn như kế hoạch mua tàu đổ bộ lớp "Mistral" của Pháp.
Có thể thấy rằng, tiền không phải là nguyên nhân chính. Qua giao dịch vũ khí này Trung Quốc vừa có thể tiếp xúc với công nghệ mới, quan trọng hơn là có thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hợp tác chiến lược Trung-Nga, bởi vì việc Bắc Kinh mua được Su-35 sẽ là hình mẫu tiêu biểu đối với các nước hiện đang trang bị các loại vũ khí Nga.
Điều này sẽ giúp Su-35 có thể nhanh chóng mở được cánh cửa xuất khẩu trên thị trường thế giới, tạo được “ân huệ” với người Nga, đồng thời cũng làm tăng trọng lượng lời nói của Trung Quốc trong thương lượng hợp tác giữa 2 bên về các lĩnh vực khác, ví dụ hợp tác về dầu mỏ và khí đốt.
Vì vậy, mua sắm máy bay chiến đấu thế hệ 4++ của Nga là một mũi tên trúng nhiều đích mà Trung Quốc nhắm tới, một mặt tăng cường sức mạnh cho lực lượng không quân, mặt khác học hỏi được nhiều công nghệ vũ khí mới từ máy bay chiến đấu Nga. Ngoài ra, nó còn giúp cân bằng lợi ích giữa 2 bên và tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện Trung-Nga.