Cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc gọi là Tây Sa thực chất là những cuộc xâm lăng lãnh thổ bằng vũ lực.
Điều này hoàn toàn không được công nhận và vi phạm nghiêm trọng điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc.
Có thể thấy rằng, Trung Quốc chỉ bắt đầu “nhòm ngó” quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, tổ chức tấn công xâm lược vào những năm 1946, 1956, 1974 và chiếm giữ trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam đến ngày nay.
|
Toàn cảnh cơ sở hành chính trên đảo Hoàng Sa. Ảnh: tư liệu (nguồn VNN) |
Những luận điệu mà phía Trung Quốc đưa ra đều hoàn toàn phí lý và xuyên tạc.
Luận điệu thứ nhất của Trung Quốc cho rằng: “Trong chiến tranh thế giới thứ 2, phát xít Nhật chiếm đóng quần đảo Tây Sa. Năm 1945, Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, theo hàng loạt các văn kiện quốc tế, tháng 11/1946, Chính phủ Trung Quốc cử quan chức cấp cao đi tàu đến Tây Sa tiếp nhận”.
Phân tích điều này sẽ thấy rõ:
Thứ nhất, Phát xít Nhật không xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa mà là từ tay người Pháp đang bảo hộ cho Việt Nam. Trung Quốc không có chủ quyền ở Hoàng Sa nên luận điệu “tiếp quản” là hoàn toàn vô lý.
Thứ 2, tại hội nghị Potsdam ngày 26/7/1945 các nhà lãnh đạo Tam cường khi đó là Hoa Kỳ, Anh, Trung Hoa dân quốc đã quyết định chia Đông Dương làm hai khu vực để tiện cho việc giải giới quân đội Nhật Bản đóng tại đây.
Vĩ tuyến thứ 16 được chọn làm ranh giới: việc giải giới ở khu vực Bắc vĩ tuyến ủy thác cho quân đội Trung Hoa (quân Tưởng Giới Thạch) và ở khu vực phía Nam do liên quân Anh - Ấn đảm nhận. Vì quần đảo Hoàng Sa nằm ở giữa hai vĩ tuyến thứ 15 và 17 nên việc giải giới quân đội Nhật trú đóng ở đây thuộc thẩm quyền của quân Tưởng.
Tuyên ngôn Potsdam chỉ cho phép Trung Hoa dân quốc giải giới quân đội Nhật Bản ở quần đảo Hoàng Sa, chứ không cho phép Trung Hoa dân quốc thu hồi quần đảo này. Theo đó, Trung Hoa dân quốc, sau khi giải giáp quân đội Nhật và ổn định tình hình cần phải trao trả Hoàng Sa cho quốc gia có chủ quyền là Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Mở thành phố HCM- người có nhiều công trình nghiên cứu khoa học giai đoạn lịch sử đặc biệt này cho biết: “Vốn đã nhòm ngó Hoàng Sa của Việt Nam từ lâu nên Trung Hoa dân quốc sau khi giải giáp quân đội Nhật Bản, họ đã không trao Hoàng Sa cho Việt Nam mà thừa cơ chiếm đoạt. Việc làm đó đã vi phạm Tuyên ngôn Potsdam và luật pháp quốc tế.”
“Việc chiếm đóng và thu hồi hai quần đảo này của Trung Hoa dân quốc là bất hợp pháp và vi phạm nghiêm trọng luật quốc tế vì làm trái với quyết định của Tuyên ngôn Potsdam. Trung Hoa dân quốc cần giải giáp quân đội Nhật sau đó trả lại Hoàng Sa cho Việt Nam mới đúng nội dung của Tuyên ngôn Potsdam.”- TS Phúc khẳng định.
Tất nhiên với Hiệp định Sơ bộ Hồ Chủ tịch ký với Cộng hòa Pháp ngày 6/3/1946, Việt Nam vẫn nằm trong khối Liên hiệp Pháp nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Với những phản ứng mạnh mẽ của Pháp trước sự chiếm đóng trái phép của quân đội Tưởng Giới Thạch ở Hoàng Sa và sự suy yếu trước các cuộc tấn công như vũ bão của quân đội Mao Trạch Đông ở trong nước, quân Trung Hoa dân quốc buộc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, kết thúc khoảng thời gian ngắn chiếm đóng trái phép ở quần đảo này. Đến ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ Hoàng Sa.
|
Tàu chiến của Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa Việt Nam tháng 1/1974. Ảnh: tư liệu |
Luận điệu thứ 2 Trung Quốc đưa ra: “Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã đánh đuổi quân đội Sài Gòn Việt Nam khi đó đang chiếm đóng một số đảo trong quần đảo Tây Sa”.Sự thực vấn đề này như thế nào?
Lợi dụng thời khắc lịch sử rối ren của Việt Nam khi quân viễn chinh Pháp buộc phải rút khỏi lãnh thổ của Việt Nam theo Hiệp định Giơnevơ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa chưa kịp tiếp quản Hoàng Sa, Trung Quốc đã “lén lút” đưa quân chiếm đóng nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956.
Ngày 21/2/1959, CHND Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hòa nhằm đánh chiếm nhóm đảo còn lại của quần đảo Hoàng Sa nhưng đã bị lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa phát hiện. 82 binh lính Trung Quốc đóng giả ngư dân cùng với 5 tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc đã bị bắt giữ và áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó được trả lại cho Trung Quốc.
Năm 1970, thời điểm cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam vào giai đoạn cao điểm, Hải quân của quân giải phóng nhân dân Trung Hoa đã tiến hành một số hoạt động ít kín đáo trên nhóm đảo An Vĩnh, bộ phận phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Các cơ sở hạ tầng quân sự đã được xây dựng vào năm 1971. Từ ngày 17 tháng 1 năm 1974, Trung Quốc mở cuộc tấn công vào lực lượng hải quân của Việt Nam Cộng Hòa với lực lượng hùng hậu: một hạm đội gồm 8 tàu chiến, lục quân và không quân. Dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sĩ đã hy sinh nhưng đến ngày 20 tháng 1 năm 1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã thất thủ, Trung Quốc đã chiếm nốt nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Hành động đánh chiếm các đảo, quần đảo ở Biển Đông bằng vũ lực là một sự vi phạm nghiêm trọng Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc. Trong đó nêu rõ: “lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”.
Nguyên tắc này được phát triển và cụ thể hóa trong Nghị quyết 2526 ngày 24 tháng 10 năm 1970 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, trong đó tuyên bố: "Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe dọa hoặc bằng sử dụng vũ lực đều không được thừa nhận là hợp pháp”.
Bà Monique Chemillier Gendreau, Giáo sư Công pháp và Khoa học Chính trị của Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu nhấn mạnh rằng, việc chiếm đóng bằng các cuộc xăm lăng vũ lực là vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, tất cả những hoạt động của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa không được thừa nhận là hợp pháp.
“Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử với quần đảo Hoàng Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ lực. Điều này không thể được xem là một quyền theo luật pháp quốc tế.” – Bà Monique Chemillier Gendreau khẳng định.
Như vậy, đã quá rõ ràng về cái mà Trung Quốc gọi là sự tiếp quản chủ quyền của Trung Quốc ở Tây Sa (tức Hoàng Sa), càng rõ ràng hơn cái mà Trung Quốc nói là đánh đuổi quân đội của VNCH trên quần đảo này vào tháng 1 năm 1974. Đó thực chất chỉ là những hoạt động “trộm cướp” trong những hoàn cảnh đặc thù mà luật pháp quốc tế đã và đang nghiêm cấm những hành vi như vậy.
Luận điệu nữa, Trung Quốc đưa ra những dẫn chứng là lời nói vào năm 1956 của ông Ung Văn Khiêm, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam DCCH, nội dung công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Tây Sa. Trung Quốc cho rằng: “Chính phủ VN hiện nay đã quên ngay những thừa nhận trước kia, vi phạm nghiêm trọng quy định quốc tế và chuẩn tắc trong quan hệ quốc tế là không được phản ngôn”.
Như đã phân tích trong nhiều bài viết trước về vấn đề này, theo Hiệp định Giơnevơ năm 1974, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Nam Việt Nam nên chỉ có chính quyền Nam Việt Nam mới được phát biểu về Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi đó không phải là chính chủ về mặt lãnh thổ nên không có quyền, những lời phát biểu hoặc sự thừa nhận của chính phủ Việt Nam DCCH về chủ quyền của Trung Quốc ở Tây Sa đều không mang ý nghĩa pháp lý.
Thêm nữa, người Việt Nam không hề “phản ngôn” mà trái lại, việc thực thi và tuyên bố chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa luôn được các cơ quan đại diện hợp pháp duy trì một cách liên tục, không gián đoạn. Trong đó, có thể kể đến thông cáo ngày 24/5/1956, Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh: “Toàn bộ quần đảo Hoàng Sa luôn là một phần lãnh thổ thuộc Việt Nam”. Trước đó, trước việc Trung Quốc dùng vũ lực đánh cướp nhóm đảo phía Tây, quan sát viên của Việt Nam DCCH tại Liên hợp quốc khi đó đã chính thức yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc xem xét hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Tóm lại, tất cả những tài liệu mà Trung Quốc đưa ra nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo mà Trung Quốc gọi là Tây Sa (tức Hoàng Sa của VN) đều là ngụy biện và giải thích một cách gượng ép. Người Trung Quốc chỉ thực sự nhòm ngó quần đảo Hoàng Sa của VN từ đầu thế kỷ XX và tổ chức đánh cướp quần đảo này từ người Việt Nam bằng hành động lén lút năm 1956 và tấn công quân sự năm 1974.
Hành động đánh chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực của Trung Quốc không những vi phạm nghiêm trọng nghiêm trọng các quy định của luật pháp quốc tế mà còn là những hành vi trái ngược với vị thế của Trung quốc trên trường quốc tế.Nhưng chính quyền Trung Quốc không chịu tỉnh ngộ mà tiếp tục ngang ngược khi cho hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam cùng với sự hộ tống của đội tàu vũ trang đông đảo.
Nhưng dường như, tiến thêm 1 bước, Trung Quốc đang “giương đông, kích tây” khi hạ đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đã cấp tập tiến hành xây dựng nhưng căn cứ tại bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa - nơi mà Trung Quốc cũng dùng vũ lực để tấn công chiếm đoạt vào ngày 14/3/1988 từ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, hòng thâu tóm Trường Sa và Biển Đông.
Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, trong một thế giới văn minh, những hành động trái ngược với pháp lý và đạo lý mà Trung Quốc đã thực hiện trong thời gian qua sẽ không thể có chỗ đứng trong lòng dư luận và cộng đồng quốc tế.