Theo khoản 2 Điều 3 Luật Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) hiện hành và khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013 của Bộ Tài chính, thưởng Tết dưới dạng tiền mặt, hiện vật hay các hình thức khác đều được tính gộp vào thu nhập từ tiền lương, tiền công để làm cơ sở tính thuế.
Bởi mức thưởng Tết được xác định trên cơ sở kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động, nên được xem là khoản thu nhập có tính chất tiền lương, tiền công, phải chịu thuế TNCN.
Số tiền thưởng Tết sẽ được cộng tổng vào thu nhập trong năm của cá nhân và sẽ được tính thuế TNCN theo biểu thuế lũy tiến như quy định.
Các tổ chức, doanh nghiệp hiện nay khi trả tiền thưởng Tết thường tạm khấu trừ 10% tiền thuế TNCN của người lao động. Cũng có trường hợp bị trừ mức cao hơn vì áp theo mức thuế suất người lao động đã đóng thuế TNCN trước đó.
Thuế thu nhập cá nhân chỉ là tạm khấu trừ, khi nào quyết toán thuế cả năm, nếu không thuộc diện chịu thuế sẽ được hoàn thuế. (Ảnh minh họa)
Những người lao động ngắn hạn (theo thời vụ hay chưa đủ 1 năm) cũng sẽ bị tạm khấu trừ 10% đối với số tiền từ 2 triệu đồng/lần trở lên theo quy định về thu nhập vãng lai.
Số tiền thưởng Tết sẽ được cộng tổng vào thu nhập trong năm của cá nhân và sẽ được tính thuế TNCN theo biểu thuế lũy tiến như quy định.
Do đó, sau này tính tổng thu nhập cả năm, gồm cả các khoản giảm trừ gia cảnh (cá nhân và người phụ thuộc), bảo hiểm bắt buộc..., mà vẫn đạt đến mức phải nộp thuế TNCN thì người lao động phải nộp thuế.
Trường hợp người lao động có tổng thu nhập thấp hơn mức phải chịu thuế TNCN thì có thể làm thủ tục hoàn thuế cho khoản 10% tạm khấu trừ từ tiền thưởng Tết.
Như vậy, có thể hiểu thưởng Tết bị trừ 10% thuế TNCN chỉ là tạm khấu trừ, khi nào quyết toán thuế cả năm, nếu không thuộc diện chịu thuế sẽ được hoàn.