Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Phát triển bền vững: Quản lý nước hướng đến mục tiêu phát triển bền vững (Kỳ 1)

(DS&PL) -

(ĐS7PL) “Đảm bảo việc tiếp cận nguồn nước sạch và cải thiện điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi người” là một trong 17 mục tiêu quan trọng...

(ĐS7PL) Lãnh đạo 193 quốc gia trên Thế giới đã xác định “Đảm bảo việc tiếp cận nguồn nước sạch và cải thiện điều kiện vệ sinh cho tất cả mọi người” là một trong 17 mục tiêu quan trọng của Chương trình Nghị sự của Liên Hợp Quốc đến năm 2030.

Nhằm chủ động ứng phó với BĐKH và đảm bảo đầy đủ nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt của người dân, năm 2017 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành quyết định về kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Theo đó, mục tiêu tổng quát là phải đảm bảo tiếp cận nguồn nước đầy đủ, quản lý bền vững tài nguyên và hệ thống vệ sinh hợp lý cho tất cả mọi người (Thủ tướng Chính phủ 2017). 

Từ thực trạng hệ thống quản lý nước hiện nay, bài viết gợi ra một số vấn đề để cùng trao đổi.

Kỳ I. Tài nguyên nước, tiềm năng khai thác và những thách thức trong phát triển bền vững

Tài nguyên nước là nhân tố quan trọng giúp cho việc định hình và phát triển nền kinh tế. Là một quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới, có mùa đông lạnh; nguồn nước dồi dào cùng với chính sách phát triển hợp lý, Việt Nam đã chuyển mình từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành nước có thu nhập trung bình thấp trong vòng 2 thập kỷ.

Nhờ khả năng tái tạo tính theo đầu người hàng năm lên tới 10.200 m3, tài nguyên nước của Việt Nam được đánh giá cao so với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Với 3.500 con sông có độ dài trên 10Km, hình thành 16 lưu vực sông có lượng mưa trung bình trên 2.000mm/ năm, được hỗ trợ bởi gần 7.500 đập trữ và chuyển nước, tài nguyên nước đã góp phần đưa Việt Nam thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Ảnh minh họa

Với đặc điểm 2/3 tổng lượng nước mặn bắt nguồn bên ngoài lãnh thổ, cùng với mưa, bão bất thường, hơn 70% dân số Việt Nam chịu ảnh hưởng bất lợi bởi thiên tai liên quan tới nước. Trong quá trình phát triển, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, đất nước vẫn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng khi tăng trưởng bị kìm hãm do khan hiếm nước, nông dân nghèo vì năng suất dùng nước thấp, lũ lụt và hạn hán phá hủy sinh kế và sức khỏe con người thường xuyên bị ảnh hưởng bởi tình trạng ô nhiễm.

Tình trạng căng thẳng về nước được ghi nhận theo mùa với sự bất cân đối giữa cung và cầu.  92% tổng lượng mước khai thác được dùng vào sản xuất nông  nghiệp và nuôi trồng thủy sản; nhu cầu nước cho phát triển công nghiệp, giao thông và đô thị gia tăng dẫn đến nguy cơ cạnh tranh sử dụng ngày càng lớn. Nếu tiếp tục phát triển đất nước theo theo hướng hiện hành, căng thẳng về nước sẽ tập trung vào những vùng đang tạo ra tổng thu nhập lớn nhất.

Với tỉ lệ đô thị hoá tăng nhanh, năm 2018, cả nước có hơn 828 đô thị; 2 thành phố lớn (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) đều có mức tăng trên 3%/năm. Dân cư Thủ đô Hà Nội đã vượt 8,2 triệu người, đang trở thành một trong 10 thành phố phát triển nhanh nhất hành tinh. Trong bối cảnh ngày nay, thách thức quan trọng là quản lý các nguồn tài nguyên bền vững. Theo đó, quản lý nguồn nước, xử lý nước thải sinh hoạt và công nghiệp là một trong những vấn đề cấp bách. Nhiều nhà phân tích cho rằng, chìa khoá của phát triển bền vững tài nguyên  nước chính là đầu tư phát triển hệ thống cấp, thoát nước; thu gom và xử lý nước thải (Vietwater2019).

Trong vòng 25 năm tới, nhu cầu sử dụng nước đô thị được dự báo sẽ tăng gấp đôi. Gia tăng nhanh nhu cầu, gây áp lực rất lớn cho nguồn nước của các lưu vực sông chính; đặc biệt là ở khu vực Hồng Hà -Thái Bình, ĐB sông Cửu Long và Đồng Nai, nơi gần 2/3 dân số sinh sống và đóng góp tới 80% GDP của cả nước. Tìm kiếm các nhà đầu tư tham gia vào những lĩnh vực này hướng tới những công nghệ hiện đại, thích ứng với BĐKH là việc làm cần thiết.

Phân tích hiệu quả sử dụng nước cho thấy, mỗi m3 nước ở Việt Nam tạo ra khoảng 2,37 USD giá trị sản phẩm, chỉ bằng 1/10 mức bình quân trên thế giới. Tạo ra nhiều giá trị hơn trên một đơn vị nước sử dụng đang là thách thức rất lớn đặt ra.

Tài nguyên nước đang phải đối mặt với những đe dọa cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển đất nước kết hợp cùng BĐKH đang tạo ra những thách thức to lớn, đặc biệt là lũ lụt, ô nhiễm và cạnh tranh giữa các ngành sử dụng nước. Theo nhiều tính toán, những thách thức này có thể làm tổn thất tới 6% GDP hàng năm (W.B 2019-2)

Nghịch lý nguồn nước ở Việt Nam là quá nhiều, quá ít và quá bẩn. Nắng nóng, mưa nhiều và tập trung vào những tháng mùa mưa dẫn đến lũ lụt, gây nhiều tổn hại trước hết và nhiều nhất đối với người nghèo. Hạn hán, thiếu nước trở nên thường xuyên, đặc biệt ngày càng trầm trọng vào những tháng mùa khô. Mặt khác, tình trạng quá nhiều nước thải chưa được thu gom, xử lý đã làm nguồn nước bị ô nhiễm nặng. Ô nhiễm nước đang nổi lên và trở thành những mối đe dọa Trong đó, nước thải công nghiệp và đô thị là nguồn gây ô nhiễm lớn nhất. Tác động ô nhiễm nước đến sức khỏe con người được dự báo đến năm 2035 sẽ làm suy giảm đến 3,5% GDP hàng năm (W.B 2019-2).

Cho đến nay, chỉ có 12,5% lượng nước thải đô thị được xử lý trước khi xả vào các nguồn nước. Trong 326 khu công nghiệp cả nước, có 220 khu xây dựng hệ thống nước thải tập trung, xử lý được khoảng 71% lượng nước thải phát sinh. Đáng lưu ý là, ở 587 cụm công nghiệp, chỉ có 9,4% có hệ thống xử lý nước thải. Phần lớn nước thải của các gia đình trong hơn 5.000 làng nghề chưa được xử lý, nước thải công nghiệp và sinh hoạt đều được xả thẳng vào hệ thống thóat nước mặt.

Cùng với ô nhiễm nước công nghiệp, vấn đề đáng quan ngại là ngành nông nghiệp đang đóng góp một lượng lớn chất thải từ phân bón, mầm bệnh và hóa chất dùng vào sản xuất. Trên 67,6 triệu tấn chất thải chăn nuôi được thải vào môi trường không qua xử lý là nguồn gây ô nhiễm đất, nước và không khí. Ngoài ra, đẩy mạnh thâm canh tăng năng suất với việc lạm dụng phân hóa hoc và thuốc trừ sâu độc hại càng khiến tình trạng ô nhiễm nông nghiệp ngày một thêm nặng nề.

Đi cùng ô nhiễm nước tràn lan, quản lý dòng chảy từ bên ngoài biên giới vào đất nước đang là một trở ngại không nhỏ. Gần 95% lượng nước của sông Mekong và trên 40% của lưu vực sông Hồng đều có nguồn gốc từ các quốc gia láng giềng.

Là một trong những nước hứng chịu thiên tai lớn nhất ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, nhiều dự báo cho rằng, sau năm 2040, lượng mưa ở Việt Nam vào mùa khô sẽ giảm, ngược lại trong mùa mưa lại đạt mức cực đại và ngành dễ bị tổn thương nhất là nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Do bất cập về cơ sở hạ tầng và khả năng chống chịu, thiệt hại về kinh tế hàng năm được xác định khoảng 1,5% GDP, sẽ tăng lên 3% vào năm 2050 và lên tới 7% GDP trong năm 2100. Rủi ro thiên tai gánh chịu còn do tình trạng bảo dưỡng các công trình nước yếu kém và nhất là ô nhiễm nguồn nước ngày càng thêm nặng nề (W.B 2019-2).

Từ thực trạng đất nước, trước yêu cầu quản lý và sử dụng tài nguyên hiệu quả đồng thời với chủ động ứng phó với BĐKH ngày một gia tăng, có thể nhận thấy Quản lý và sử dụng tài nguyên nước ở Việt Nam đang đứng trước 6 thách thức lớn đó là:

- 2.3 lượng nước trên hệ thống sông của Việt Nam được hình thành từ bên ngoài lãnh thổ, song cơ chế hợp tác và chia sẻ giữa các quốc gia còn thiếu hiệu lực;

- Nhu cầu nước cho các ngành kinh tế xã hội gia tăng mạnh, trong khi sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả còn phổ biến và nước ngầm tiếp tục suy giảm, cạn kiệt;

- Tốc độ đô thị hoá nhanh, quá tải về cơ sở hạ tầng đô thị cùng với áp lực dân số và yêu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống đòi hỏi nhiều nước hơn, đang là thách thức lớn đối với phát triển và quản lý bền vững tài nguyên nước quốc gia;

- Ô nhiễm nước gây ra từ hoạt động sản xuất và đời sống con người đang là mối đe doạ lớn nhất trong quản lý nguồn nước hiện nay;

- Tình trạng thiên tai, bão lũ, hạn hán, ngập úng, xâm nhập mặn, nước biển dâng… ngày càng gia tăng cả về phạm vi ảnh hưởng lẫn mức độ nghiêm trọng khiến tác động của BĐKH đến tài nguyên nước ngày càng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng nặng nề đối với sản xuất nông nghiệp, có thể dẫn tới xung đột về nguồn nước ở nhiều khu vực nông thôn;

- Nguồn lực đầu tư cho quản lý, bảo vệ tài nguyên nước chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, hệ thống luật pháp về tài nguyên và quản lý nguồn nước thiếu đồng bộ có thể dẫn đến mâu thuẫn, tranh chấp sử dụng nước ngày càng thêm căng thẳng và tiếp tục gia tăng (Nguyễn Hồng Tiến 2019).

TS Lê Thành Ý/Sức khỏe 365

Tin nổi bật