Những năm gần đây, trại nuôi dúi của anh Lê Xuân Chương tại xã Văn Kiều trở thành địa chỉ tham quan, học hỏi kinh nghiệm và cung cấp con giống tin cậy cho người dân trong và ngoài tỉnh. Từ 50 cặp giống ban đầu, đến nay anh đã gây dựng được cơ ngơi bề thế với 400 cặp dúi bố mẹ sinh sản đều đặn. Nhờ đàn dúi ăn khỏe, lớn nhanh và đẻ sòn sòn, mỗi năm gia đình anh thu lãi từ 600 - 700 triệu đồng.
Anh Lê Xuân Chương đang chăm sóc đàn dúi. Ảnh: Doanh nghiệp & Kinh tế xanh
Thông tin trên báo Dân Việt, cơ duyên với nghề nuôi dúi đến với anh Chương trong những năm tháng làm việc tại các xã miền Tây xứ Nghệ. Nhận thấy dúi là loài vật dễ nuôi, ít dịch bệnh lại tận dụng được nguồn thức ăn dồi dào sẵn có tại địa phương, anh bắt đầu nung nấu ý định khởi nghiệp. Đặc biệt, thị trường tiêu thụ của loài đặc sản này rất ổn định, đầu ra rộng mở cho cả con giống và thương phẩm.
Năm 2020, anh Chương quyết định mua 50 cặp dúi mốc về làm giống. Để đảm bảo tính pháp lý, gia đình anh đã đăng ký hộ nuôi với Hạt Kiểm lâm Nghi Lộc và hoàn tất đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật trước khi bắt tay vào thực hiện.
Không chỉ dựa vào kinh nghiệm tự học hỏi, anh Chương còn chủ động tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật do Trung tâm Khuyến nông tỉnh Nghệ An tổ chức để nắm vững tập tính loài. Theo anh Chương, hệ thống chuồng trại là yếu tố tiên quyết. Chuồng được anh xây dựng theo hướng khép kín, đặt tại nơi yên tĩnh, thoáng mát, hạn chế tối đa ánh sáng và tiếng ồn để phù hợp với tập tính hoang dã của dúi.
Các ô chuồng được ghép bằng gạch men, thiết kế nền cao ráo, thoát nước tốt và có nắp đậy. Đối với dúi sinh sản, kích thước chuồng khoảng 60x60cm/cặp; chuồng nuôi thương phẩm rộng hơn, khoảng 80x100cm để nuôi ghép 3 - 5 con.
Dúi mốc ăn khỏe đẻ đều giúp gia đình anh Chương có thu nhập ổn định. Ảnh: Dân Việt
"Nuôi dúi mốc cần sự kiên nhẫn và tỉ mỉ. Tôi luôn chú trọng giữ chuồng trại khô ráo, sạch sẽ để tránh ẩm ướt gây bệnh. Đặc biệt, khu vực dúi mẹ mang thai hoặc nuôi con được tách riêng, lót rơm giữ ấm và đảm bảo yên tĩnh tuyệt đối để tránh tình trạng mẹ bị stress cắn hoặc bỏ con", anh Chương chia sẻ kinh nghiệm trên tạp chí Doanh nghiệp & Kinh tế xanh.
Về chế độ dinh dưỡng, anh cho dúi ăn mỗi ngày một lần vào chiều tối – thời điểm chúng bắt đầu hoạt động mạnh. Thức ăn chủ yếu là các loại thân cây rẻ tiền, dễ kiếm như tre, nứa, mía, ngô, sắn... Tất cả đều được sơ chế sạch sẽ, để ráo nước nhằm phòng tránh bệnh đường ruột. Do dúi không uống nước trực tiếp nên nguồn thức ăn luôn cần giữ độ tươi để cung cấp độ ẩm tự nhiên.
Nhờ áp dụng quy trình kỹ thuật bài bản cùng nguồn thức ăn sạch, đàn dúi của anh Chương sinh trưởng nhanh và sinh sản rất tốt. Trung bình mỗi cặp dúi bố mẹ đẻ khoảng 3 lứa/năm, mỗi lứa từ 2 đến 4 con. Dúi con sau sinh khoảng 25 - 30 ngày, khi đã ăn được thức ăn thô sẽ được tách đàn.
Dúi nuôi thương phẩm sau 8 đến 10 tháng chăm sóc sẽ đạt trọng lượng tiêu chuẩn xuất bán từ 1,4 – 1,6 kg/con.
Hiện tại, thị trường tiêu thụ dúi mốc rất lớn, được xem là món đặc sản cao cấp tại nhiều nhà hàng, quán ăn. Giá bán dúi thịt dao động từ 500.000 – 600.000 đồng/kg tùy thời điểm. Riêng dúi giống được bán với giá từ 1,5 – 1,6 triệu đồng/cặp.
Với quy mô hơn 400 cặp sinh sản, mỗi năm trại của anh Chương cung cấp ra thị trường hàng trăm cặp giống và hàng trăm con dúi thương phẩm. Nhiều hộ chăn nuôi từ các tỉnh lân cận như Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Quảng Bình cũng tìm đến trại của anh để đặt mua con giống và học hỏi kỹ thuật.
Các ô chuồng được ghép bằng gạch men, thiết kế nền cao ráo, thoát nước tốt và có nắp đậy. Ảnh: Dân Việt
Anh Chương phấn khởi cho biết trên báo Dân Việt: "Có những thời điểm khách gọi đặt hàng số lượng lớn nhưng trại không kịp giao vì đàn chưa đến tuổi xuất bán. Sau khi trừ hết chi phí thức ăn, nhân công và khấu hao chuồng trại, đàn dúi giúp gia đình tôi thu về lợi nhuận bình quân từ 600 đến 700 triệu đồng mỗi năm".
Ngoài hiệu quả kinh tế, mô hình nuôi dúi của anh Chương còn tận dụng chất thải chăn nuôi, ủ men vi sinh làm phân bón hữu cơ cho cây trồng, đảm bảo vệ sinh môi trường. Thành công của anh Lê Xuân Chương không chỉ mở ra hướng làm giàu bền vững cho gia đình mà còn là minh chứng sống động cho việc mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật vào chuyển đổi cơ cấu vật nuôi tại địa phương.