Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Nhiễm độc thủy ngân: Dấu hiệu và những biện pháp phòng tránh

(DS&PL) -

Khi con người tiếp xúc, hít thở hay ăn phải thủy ngân, nó sẽ gây ra những tổn thương nặng nề cho não và gan.

Khi con người tiếp xúc, hít thở hay ăn phải thủy ngân, nó sẽ gây ra những tổn thương nặng nề cho não và gan.

Thủy ngân độc hại thế nào

Thủy ngân là kim loại, ký hiệu Hg, xuất hiện tự nhiên trong môi trường do hoạt động của núi lửa, thời tiết, nhất là do con người. Các nhà máy sử dụng than đá, khai thác kim loại, vàng... là nguồn chính phóng thích thủy ngân vào môi trường.

Thủy ngân không tan trong nước, có thể bay hơi ngay ở 20oC, tồn tại dưới nhiều dạng. Thủy ngân nguyên tố (hay kim loại) và vô cơ là nguồn gây nhiễm qua tiếp xúc nghề nghiệp. Thủy ngân hữu cơ (methylmercury) có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường ăn uống. Những dạng thủy ngân khác nhau sẽ có mức độ gây độc khác nhau đối với cơ thể.

Tiến sĩ Khuất Quang Sơn, Đại học Phòng cháy chữa cháy Hà Nội, cho biết thủy ngân ở dạng nguyên chất thì không độc nhưng dạng hơi và ion thì rất độc. Hg dễ bị ôxy hóa thành Hg2+. Trong nước, Hg chuyển hóa thành Hg(CH3)2 độc hại. Chất này trong môi trường sẽ đi vào nguồn nước, cây trồng và thâm nhiễm vào các loài sinh vật, nhất là cá, theo chuỗi thức ăn xâm nhập cơ thể vật nuôi và con người.

Thủy ngân không độc ở dạng nguyên chất nhưng rất độc ở dạng hơi và ion. Ảnh minh họa

Khi tiếp xúc với cơ thể, thủy ngân được hấp thụ gần như hoàn toàn vào máu và phân phối tới mọi mô, bao gồm bộ não. Sau đó, Hg thải loại 10 mg trong 24 giờ qua nước tiểu và 10 mg một ngày qua phân. Số còn lại tích lũy ở gan, ruột, thận, tổ chức thần kinh và một số bộ phận khác.

Một trong những hợp chất độc nhất là đimêtyl thủy ngân, độc đến mức chỉ vài micrôlít rơi vào da có thể gây tử vong.

Nguồn lây nhiễm, ngộ độc thủy ngân

Bác sĩ Nguyễn Triệu Vũ, Trưởng khoa Ung bướu, bệnh viện Quận Thủ Đức TP. HCM, cho biết hiện tượng tê và đau nhói ở môi, ngón tay, ngón chân do ngộ độc thủy ngân gọi là chứng dị cảm (paresthesia). Ngoài ra còn có chứng Minamata là một dạng ngộ độc thủy ngân do ăn hải sản nhiễm thủy ngân.

Tên bệnh bắt nguồn từ sự kiện nhà máy tại Nhật Bản đổ nhiều chất thải có chứa thủy ngân vào vịnh Minamata gây nhiễm thủy ngân cho lượng lớn cá và hàu tại đây. Người dân ăn phải các loại hải sản này đã bị ngộ độc. Ước tính khoảng 50.000 người bị ảnh hưởng với các di chứng hệ thần kinh như liệt, lú lẫn, rối loạn thăng bằng...

Hợp chất thủy ngân vô cơ có thể được tìm thấy trong pin, thuốc uống, thuốc mỡ, thuốc xịt muỗi và một số loại thuốc có nguồn gốc thảo mộc. Hợp chất này có thể gây hại nếu con người hít hoặc nuốt vào cơ thể.

Dạng cuối cùng là thủy ngân phenyl (phenylmercury) thường có mặt trong các loại sơn sản xuất từ nhựa mủ, sơn ngoại thất, bả chống thấm, mỹ phẩm dành cho mắt và dụng cụ vệ sinh cá nhân. Phenylmercury xâm nhập vào cơ thể khi hít vào ở dạng hơi, ngấm qua da hoặc qua đường tiêu hóa.

Thủy ngân được dùng trong chế tạo bóng đèn, bình thủy, một số loại nhiệt kế, pin... Nồng độ thủy ngân ở ngưỡng an toàn trong môi trường theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là 0.025 mcg/L, còn ở Việt Nam 0,01 mcg/L.

Dấu hiệu nhiễm độc thủy ngân

Tùy thuộc dạng thủy ngân (Hg) gây ngộ độc, khoảng thời gian, cường độ tiếp xúc và một vài điều kiện cơ thể mà biểu hiện lâm sàng ngộ độc khác nhau. Hít Hg nguyên tố và nuốt Hg vô cơ gây ngộ độc cấp, trong khi tiếp xúc với dạng hữu cơ như ăn phải cá chứa Hg thường gây ngộ độc mạn.

Cần chú ý tới những dấu hiệu nhiễm độc thủy ngân để có phương pháp điều trị kịp thời.

Hít phải thủy ngân gây bệnh phổi nặng cấp tính. Triệu chứng đầu tiên là sốt do khói kim loại gồm: Sốt, ớn lạnh, thở khó. Những triệu chứng khác gồm: Viêm miệng, lơ mơ, co giật, nôn ói và viêm ruột. Những triệu chứng này thường dịu đi trong vòng 1 tuần. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, diễn tiến nặng hơn phù phổi cấp, suy hô hấp và tử vong.

Ngộ độc mạn do hít thủy ngân gây tam chứng kinh điển: viêm lợi và chảy nước miếng, run giật tay và rối loạn tâm thần kinh. Trẻ thường mất ngủ, hay quên, tâm lý không ổn định, kém ăn, vẻ buồn bã.

Nuốt phải thủy ngân vô cơ (điển hình là pin) gây phỏng niêm mạc miệng, đau bụng, buồn nôn, nôn ra máu. Diễn tiến sau đó vài ngày hoại tử ống thận cấp, gây suy thận, rối loạn nước và điện giải có thể gây tử vong.

Ăn thức ăn chứa thủy ngân hữu cơ như cá biển gây ngộ độc mạn, xuất hiện sau nhiều ngày đến nhiều tuần.

Biểu hiện thần kinh là dị cảm, thất điều, suy nhược thần kinh, giảm thính giác, loạn vận ngôn, thu hẹp thị trường, rối loạn tâm thần, run cơ, rối loạn cử động và có thể tử vong. Đặc biệt, rất độc đối với thai nhi có mẹ thường xuyên ăn cá biển chứa nhiều thủy ngân gây sẩy thai, khuyết tật thần kinh, chậm phát triển tâm thần, bại não, biến dạng chi.

Điều trị nhiễm độc thủy ngân

Điều trị ban đầu ngộ độc Hg tương tự những ngộ độc khác, phải nhanh chóng đánh giá tình trạng hô hấp, tuần hoàn. Loại thải chất độc ở da bằng cách cởi bỏ quần áo bị nhiễm bẩn, rửa da, mắt nếu bị nhiễm. Ngộ độc do nuốt không gây nôn và cũng không rửa dạ dày, vì nguy cơ thủng dạ dày và thủng thực quản. Không dùng than hoạt tính bởi không có tác dụng hấp thụ kim loại.

Người ngộ độc Hg vô cơ cần được truyền dịch ngăn ngừa trụy tim mạch. Nếu tổn thương niêm mạc hầu họng gây phù nề nhiều, phải đặt nội khí quản để ngăn ngừa tắc nghẽn hô hấp. Xuất hiện triệu chứng toàn thân có sự chuyển đổi Hg hữu cơ thành vô cơ trong cơ thể, bệnh nhân phải được dùng thuốc giải độc đặc hiệu ngay.

Phòng ngừa tốt nhất là giảm thiểu hoặc loại bỏ các vật dụng có sử dụng thủy ngân như bóng đèn, pin, nhiệt kế. Sử dụng năng lượng sạch như gió, mặt trời thay thế cho than đá. Kiểm soát an toàn thực phẩm.

Người dân sinh sống quanh khu vực nhà máy Rạng Đông được khuyến cáo không nên sử dụng các loại rau trồng ngoài trời.

Riêng vụ cháy kho bóng đèn Rạng Đông, người dân sinh sống quanh khu vực cháy cần thận trọng, thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh cá nhân theo khuyến cáo của ngành y tế, tẩy rửa tường, sàn nhà, đồ gia dụng, không sử dụng nước từ các bể chứa hở...

"Người trực tiếp tham gia vào công tác chữa cháy như lính cứu hỏa, hoặc người dân có biểu hiện bất thường cay mắt, cay mũi, ho, tức ngực, khó thở, đau đầu, cần đi kiểm tra sức khỏe", bác sĩ Nguyễn Trung Nguyên, Trung tâm chống độc, Bệnh viện Bạch Mai, khuyến cáo.

Biện pháp phòng tránh

Vì các ảnh hưởng nguy hiểm tới sức khỏe do phơi nhiễm Hg, cần có những qui định giới hạn chất thải chứa Hg ra môi trường sống, kiểm soát ngưỡng cho phép tiếp xúc với các dạng khác nhau của Hg để phòng chống ngộ độc Hg trong môi trường. Những quy định hạn chế những sản phẩm chứa Hg dễ vỡ, các sản phẩm thuốc, phấn trong thành phần có chứa Hg để hạn chế nguy cơ trẻ tiếp xúc với Hg.

Để phòng tránh trẻ nuốt phải Hg tại nhà, các bậc phụ huynh cẩn thận với nhiệt kế Hg: không đặt trên bàn, kệ trong tầm nhìn, tầm tay của trẻ. Không cho trẻ chơi nghịch với nhiệt kế. Khi đo nhiệt độ cho trẻ, luôn bên cạnh trẻ và quan sát trong suốt thời gian đo, cho đến khi có kết quả nhiệt độ. Cất giữ nhiệt kế trong tủ cao có khóa hoặc chốt cài cẩn thận.

Nếu phát hiện trẻ nuốt Hg trong nhiệt kế, các bậc phụ huynh tuyệt đối không móc họng, gây ói vì sẽ gây biến chứng nguy hiểm cho sức khỏe của trẻ. Nếu không hít sặc, chỉ cần theo dõi phân của trẻ trong vài ngày để xác định và đánh giá lượng Hg đã nuốt được bài tiết ra ngoài. Lưu ý cho trẻ ăn uống đầy đủ để tránh táo bón.

Minh Khôi (T/h)

Tin nổi bật