Trong công văn vừa ban hành, NHNN yêu cầu các NHTM không được mua trái phiếu doanh nghiệp trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp phát hành.
Theo báo An Ninh Thủ Đô, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa có công văn gửi các ngân hàng thương mại trong nước yêu cầu kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.
Theo đó, NHNN cho biết, qua công tác quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng trong các tháng đầu năm 2019 cho thấy hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng thương mại (NHTM) nói chung còn tiềm ẩn rủi ro khi một số ngân hàng có số dư đầu tư trái phiếu doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản và tiếp tục tăng nhanh. Đặc biệt, số dư đầu tư trái phiếu vào lĩnh vực xây dựng, bất động sản lớn khi thị trường bất động sản chưa phục hồi vững chắc, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn.
Ngoài ra, một số ngân hàng đầu tư trái phiếu với mục đích khác ở mức cao và biến động lớn, khó kiểm soát. Ngoài ra, một số ngân hàng tiếp tục đầu tư trái phiếu với mục đích cơ cấu lại nợ của tổ chức phát hành trong năm 2019.
Ngân hàng nhà nước yêu cầu kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Ảnh: VietNamnet |
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, hạn chế rủi ro trong hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp, NHNN đã yêu cầu các NHTM phải rà soát các quy định nội bộ, đảm bảo ban hành đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt các quy định nội bộ liên quan đến hoạt động mua trái phiếu doanh nghiệp.
NHNN yêu cầu các NHTM không được mua trái phiếu doanh nghiệp trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp phát hành.
Các ngân hàng cũng phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư trái phiếu có mục đích đầu tư vào các chương trình, dự án thuộc lĩnh vực kinh doanh bất động sản hoặc tăng quy mô vốn của tổ chức phát hành hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản để hạn chế rủi ro.
Theo NHNN, các NHTM phải tăng cường kiểm tra, giám sát sau cho vay, trong đó đặc biệt là giám sát việc sử dụng vốn đúng mục đích; thường xuyên theo dõi, đánh giá để xác định sớm các dấu hiệu bất thường về khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, quy định nội bộ trong hoạt động cấp tín dụng.
Các NHTM tăng cường kiểm soát hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp; tích cực triển khai các biện pháp kiểm soát nợ nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh; nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định và hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng; nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ.
Cùng với đó, cần tập trung rà soát việc đầu tư trái phiếu đối với các doanh nghiệp có số dư lớn, nhất là các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với nhiều tổ chức tín dụng/doanh nghiệp khác, đảm bảo tuân thủ đúng quy định về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan.
Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh sẽ xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp.
Trao đổi về vấn đề này với báo VietNamnet, chuyên gia kinh tế Phạm Nam Kim cho hay, mặc dù vốn đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp của các NHTM được tính vào hạn mức tín dụng, nhưng dường như quy định này đã không ngăn cản được các ngân hàng đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp. Ngoài lãi suất cao còn là câu chuyện về cơ cấu lại nợ. Những doanh nghiệp có khoản nợ ngân hàng, sắp đến kỳ thanh toán, nhưng không có tiền để trả, thì phát hành trái phiếu và ngân hàng chủ nợ sẽ mua để cơ cấu lại nợ.
Hoạt động này rõ ràng đang tiềm ẩn rủi ro cao so với cho vay vốn dự án. Các phân tích cho thấy, khi ngân hàng cho vay vốn, sẽ phải thực hiện theo quy trình tín dụng, kiểm tra trước, trong và sau cho vay, gồm có kiểm tra mục đích vay vốn, tính khả thi của dự án, năng lực tài chính và tài sản đảm bảo tiền vay.
Trước hết, các ngân hàng sẽ phải xem xét kỹ mục đích vay, báo cáo tài chính của doanh nghiệp từ 1-2 năm liền kề, tiếp đến là xem xét tài sản đảm bảo xem có đủ tính pháp lý không, định giá như thế nào và có đăng ký giao dịch bảo đảm không,...
Sau đó là xem xét khả năng thu hồi vốn của dự án, khả năng nguồn tiền doanh nghiệp có thể thu về trả nợ và thấy hiệu quả, cũng chỉ cho vay từ 60-70% tổng nhu cầu vốn của dự án, còn lại là vốn của doanh nghiệp.
Khi đã chấp thuận cho vay, ngân hàng còn phải kiểm tra xem khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích hay không, dòng tiền bán hàng của doanh nghiệp phải chuyển qua ngân hàng. Nếu doanh nghiệp có khó khăn còn tư vấn tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn,... Về giải ngân, khi cho vay vốn, ngân hàng sẽ giải ngân theo nhiều đợt, dựa trên quá trình triển khai của dự án.
Tuy nhiên, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, theo quy định mới tại Nghị định 163/2018/NĐ-CP đã nới lỏng hơn rất nhiều. Trong đó, đáng chú ý là bỏ điều kiện doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có lãi trong năm gần nhất, chỉ cần có báo cáo tài chính được kiểm toán. Như vậy dù làm ăn thua lỗ, doanh nghiệp vẫn được phát hành trái phiếu. Khi ngân hàng đã mua trái phiếu doanh nghiệp thì phải chuyển hết tiền ngay và cũng không nắm chắc nguồn vốn có sử dụng đúng mục đích hay không, phương án có khả thi không.
Với lĩnh vực bất động sản, hiện có tính thanh khoản thấp, sản phẩm tồn đọng nhiều và NHNN thời gian qua phải siết cho vay. Đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp bất động sản, ngân hàng không bị siết và cũng không phải trích lập dự phòng rủi ro.
Như vậy, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất lớn. Nếu doanh nghiệp thua lỗ, phá sản thì việc thu hồi vốn rất khó, chuyên gia Phạm Nam Kim nhận định.
Không những thế, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu hầu như chưa được xếp hạng tín nhiệm, nên rất khó để nhận biết. Thậm chí, có con số cho rằng 70% số doanh nghiệp phát hành trái phiếu, sử dụng tài sản và tài sản hình thành từ nguồn trái phiếu nhưng chưa được định giá bởi tổ chức định giá độc lập và khó xác minh các tranh chấp pháp lý.
Nguyễn Phượng (T/h)