Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, việc vay mượn tiền được điều chỉnh tại Điều 463 đến Điều 466, quy định rõ:
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn, bên vay phải hoàn trả tài sản cùng loại, đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận.
Việc vay mượn có thể được lập bằng miệng, bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
Điều đó có nghĩa: pháp luật không bắt buộc hợp đồng vay tiền phải lập thành văn bản hoặc công chứng. Do đó, tin nhắn, email, Zalo, Messenger, SMS... đều có thể xem là chứng cứ hợp lệ nếu thể hiện rõ thỏa thuận vay.
Ảnh minh họa
Theo Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, chứng cứ được hiểu là:
“Những gì có thật được thu thập theo trình tự, thủ tục do luật định, dùng làm căn cứ để xác định tình tiết của vụ án.”
Tin nhắn điện thoại, tin nhắn qua mạng xã hội, biên lai chuyển khoản, hình ảnh hoặc ghi âm cuộc nói chuyện… đều là chứng cứ điện tử nếu chứng minh được:
Có thỏa thuận vay mượn tiền (số tiền, thời gian trả, lãi suất nếu có).
Có hành vi giao – nhận tiền (ví dụ: chuyển khoản qua ngân hàng).
Có nội dung người vay thừa nhận việc mượn tiền.=> Khi đáp ứng các yếu tố trên, tin nhắn có giá trị pháp lý tương tự như hợp đồng viết tay.
Tại Điều 496 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ của bên mượn tài sản
Điều 496. Nghĩa vụ của bên mượn tài sản
1. Giữ gìn, bảo quản tài sản mượn, không được tự ý thay đổi tình trạng của tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng thông thường thì phải sửa chữa.
2. Không được cho người khác mượn lại, nếu không có sự đồng ý của bên cho mượn.3. Trả lại tài sản mượn đúng thời hạn; nếu không có thỏa thuận về thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được.
4. Bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản mượn.
5. Bên mượn tài sản phải chịu rủi ro đối với tài sản mượn trong thời gian chậm trả.Như vậy, người mượn tiền phải có nghĩa vụ trả tiền đúng thời hạn, nếu không có thỏa thuận về thời hạn trả lại tiền thì bên mượn phải trả lại tiền ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được.
Nếu người mượn không trả nợ dù mượn qua tin nhắn hay lập hợp đồng thì người cho mượn hoàn toàn có quyền khởi kiện để đòi nợ bởi quyền lợi của người cho mượn tiền trong trường hợp này đã bị xâm phạm.