Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Mang hơn 3kg ma túy lên máy bay, Việt kiều lãnh án tử hình

(DS&PL) -

Kiểm tra 2 vali Dũng mang theo, lực lượng hải quan sân bay Tân Sơn Nhất phát hiện 2 gói ma túy nặng hơn 3 kg.

Kiểm tra 2 vali Dũng mang theo, lực lượng hải quan sân bay Tân Sơn Nhất phát hiện 2 gói ma túy nặng hơn 3 kg.

Theo thông tin đăng tải trên báo Tri thức trực tuyến, ngày 17/4, TAND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm đã bác đơn kháng cáo, tuyên y án tử hình với Phạm Trung Dũng (40 tuổi, quốc tịch Australia) về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.

Bị cáo Dũng bị tuyên án tử hình - Ảnh: báo Tri thức trực tuyến

Báo An ninh thủ đô đưa tin, cáo trạng của TAND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xác định, từ năm 2000, Dũng đã quen biết và sống như vợ chồng với Phan Thị Tố Quyên tại nước Úc. Đến ngày 17/4/2013, Dũng, Quyên cùng 2 con từ Úc đi du lịch và về Việt Nam thăm gia đình của Dũng ở Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh.

Khi Dũng cùng gia đình ở TP. Hồ Chí Minh đi tham quan và du lịch thì có người đàn ông tên Kiên (không rõ lai lịch) nhờ Dũng mang 2 chiếc vali về Úc với tiền công là 40.000 AUD (đô la Úc) thì Dũng nhận lời.

Đến ngày 16/5/2013, Khi Dũng đang lưu trú tại một khách sạn trên đường Lê Thánh Tôn (Q.1, TP. Hồ Chí Minh) thì Kiên chủ động liên lạc và mang 2 vali tới khách sạn giao cho Dũng để nhờ mang về Úc theo thỏa thuận trước đó. Sau khi nhận 2 chiếc vali, Dũng mang về nhà ở quận Bình Thạnh.

Dũng kêu Quyên bỏ quần áo của gia đình vào 2 chiếc vali trên. Đến ngày 17/5/2013, Dũng, Quyên mỗi người xách 1 vali mang ra sân bay Tân Sơn Nhất để làm thủ tục xuất cảnh về Úc thì bị Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất kiểm tra, phát hiện trong 2 chiếc vali của Dũng có chứa gần 3,5kg heroin (sau này giám định lại là 2kg).

Đối với Phan Thị Tố Quyên do không biết gì về hai chiếc valy trên, tưởng là chồng mua để đựng đồ cá nhân nên không có cơ sở chứng minh là đồng phạm với Dũng nên không bị xử lý.

Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009:

1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: 

a) Có tổ chức; 

b) Phạm tội nhiều lần;

c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;

g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam; 

h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam; 

k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam; 

l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam; 

m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam; 

n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;

p) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;

b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;

d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;

đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;

e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít;

h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;

đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên; 

e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;

g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;

h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo

(Tổng hợp)

Tin nổi bật