Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Mang hàng tỷ USD đầu tư ra nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước đang "làm ăn" thế nào?

(DS&PL) -

Đến hết năm 2019, có 114 dự án của doanh nghiệp nhà nước đầu tư ở nước ngoài với vốn thực hiện khoảng 6,7 tỷ USD nhưng phần lớn không hiệu quả.

Đến hết năm 2019, có 114 dự án của doanh nghiệp nhà nước đầu tư ở nước ngoài với vốn thực hiện khoảng 6,7 tỷ USD nhưng phần lớn không hiệu quả.

Trụ sở Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Ảnh: VnExpress

Theo báo cáo của bộ KH&ĐT gửi Thủ tướng Chính phủ liên quan đến tình hình đầu tư ra nước ngoài được cho thấy, đến hết năm 2019 có 114 dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Nhà nước với tổng vốn đăng ký hơn 13,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 6,7 tỷ USD.

Hiện 8 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thuộc quản lý của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (bộ KH&ĐT) đầu tư 15 dự án ở nước ngoài. Trong số đó, 6 dự án hoạt động đúng tiến độ, 2 dự án chậm tiến độ, 5 dự án khó khăn và 2 dự án không có khả năng triển khai.

Tính đến hết năm 2019, tổng vốn chuyển ra nước ngoài gần 312 triệu USD, lợi nhuận thu về xấp xỉ 599 triệu USD. Hiện có 3 tập đoàn, tổng công ty có các công ty con trực thuộc đầu tư 56 dự án, trong đó 2 dự chậm tiến độ, 4 đang gặp khó khăn và không có khả năng thực hiện. Tổng vốn đã chuyển ra nước ngoài khoảng 3,8 tỷ USD, lợi nhuận chuyển về nước 270 triệu USD.

Tình hình đầu tư tại nước ngoài của các doanh nghiệp Nhà nước cụ thể như sau:

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là đơn vị có số dự án triển khai ở nước ngoài nhiều nhất, với 27 dự án, tổng vốn đăng ký 7,1 tỷ USD. Các dự án PVN rót vốn tại nước ngoài chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và một số dự án lĩnh vực khoáng sản khác.

Tuy nhiên, trong số đó, 13 dự án đang gặp khó khăn, 11 dự án triển khai đúng tiến độ, còn lại các dự án đều chậm và không có khả năng triển khai.

Tổng vốn PVN đã chuyển ra nước ngoài để thực hiện số dự án này đến nay khoảng 3,12 tỷ USD, tập trung chủ yếu giai đoạn 2008 - 2013, thu lãi gần 2 tỷ USD.

Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) góp 49 triệu USD lập hãng hàng không Cambodia Angkor (CCA) tại Campuchia, tương đương 49% vốn điều lệ của CCA. Hiện VNA đã có kế hoạch thoái vốn tại hãng hàng không này sau hơn 10 năm góp vốn, nhưng đến nay việc thoái vốn chưa hoàn thành.

Vietnam Airlines ghi nhận doanh thu hơn 676 triệu USD, trong đó 3 năm (2009-2012) có lãi sau thuế gần 1 triệu USD. Nhưng từ năm 2013 đến nay hãng thua lỗ. Ủy ban Quản lý vốn cho biết đã báo cáo Thủ tướng thoái vốn tại dự án này.

Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) gặp vướng tại dự án khai thác và chế biến muối mỏ Kali (tổng vốn gần 522,5 triệu USD). Nguyên nhân là giá sản phẩm Kali thế giới giảm sâu kéo dài, dự án không hiệu quả như dự kiến ban đầu.

Việc tìm đối tác sang nhượng lại dự án này của Vinachem nhận được đồng ý của Bộ Chính trị, Chính phủ, nhưng những vướng mắc tại dự án này vẫn chưa được giải quyết.

Tương tự, 2 trong số 5 dự án của Tập đoàn Than & Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã phải dừng và sang nhượng cho đối tác khác sau quá trình đầu tư.

Số phận cũng không khả quan hơn với 3 dự án còn lại của TKV tại Lào, Campuchia (tổng vốn đăng ký 21,5 triệu USD). Hiện TKV cũng đang tìm đối tác chuyển nhượng dự án để thu hồi vốn đầu tư với các dự án này.

Trái ngược với tình hình đầu tư của các doanh nghiệp nói trên, đa phần các dự án tại nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp viễn thông Quân đội (Viettel) đem lại hiệu quả. Hiện tập đoàn này và đơn vị thành viên Viettel Global đã đầu tư 10 dự án mạng viễn thông tại các quốc gia Campuchia, Lào, Đông Timor, Cameron, Burundi, Tanzania, Myanmar, Peru... và 3 dự án nghiên cứu phát triển ở Pháp, Mỹ và Nga, với tổng vốn đăng ký gần 3 tỷ USD. Đến nay Viettel đã rót 1,8 tỷ USD thực hiện số dự án này, riêng năm 2019 hơn 188,4 triệu USD.

Trong khi các dự án tại Lào, Campuchia đem lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất cho Viettel với lãi và vốn chuyển về nước lần lượt là 265 triệu USD và 168 triệu USD, thì các dự án đầu tư tại châu Phi (Cameroon, Tanzania, Mozambique...) lại gặp khó khăn do tình hình chính trị, luật pháp không ổn định. Điển hình là dự án đầu tư của Viettel tại Cameroon đang xảy ra tranh chấp kéo dài giữa các bên trong liên doanh khiến dự án đang phải ngừng hoạt động, có nguy cơ mất vốn Nhà nước.

Với Tập đoàn Cao su Việt Nam (VRG), trong số 23 dự án trồng cao su tại Lào, Campuchia với vốn rót hơn 1,3 tỷ USD thì 8 dự án đã được triển khai thực hiện (5 nhà máy chế biến cao su tại Campuchia, 3 nhà máy tại Lào). Trong số này, dự án tại Lào bắt đầu có lãi trước thuế 87 tỷ đồng, số còn lại do mới đi vào hoạt động, lại gặp phải tình hình giá cao su trên thị trường xuống thấp nên vẫn trong giai đoạn cân đối thu - chi hàng năm.

Đến nay lợi nhuận lũy kế VRG đã chuyển về nước gần 4,4 triệu USD, và có khoảng 0,5 triệu USD giữ lại tái đầu tư.

Thống kê cho thấy, lũy kế từ năm 1989 đến nay, Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài hơn 22 tỷ USD với các lĩnh vực thế mạnh của Việt Nam là nông nghiệp, lâm nghiệp, năng lượng và viễn thông.

Trong đó, tập trung tại các nước như Lào, Campuchia và Myanmar với vốn đầu tư chiếm gần 40% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.

Không bó hẹp khu vực châu Á, doanh nghiệp Việt Nam còn mở rộng địa bàn sang Australia, New Zealand, Mỹ, Canada, Haiti, Cameroon… Để đón đầu cho dòng vốn đầu tư này, hàng loạt ngân hàng Việt Nam đã “theo chân” doanh nghiệp Việt ra nước ngoài như: BIDV, VietinBank, Sacombank, MB, SHB…

Bạch Hiền (t/h)

Tin nổi bật