Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Luật pháp đòi nợ thuê ở Mỹ: Giới hạn khung giờ liên lạc, không được khủng bố điện thoại "con nợ"

(DS&PL) -

FDCPA là luật Liên bang Mỹ giới hạn hành vi và hành động của những người đòi nợ là bên thứ ba, đang cố gắng thu nợ thay cho một người hoặc tổ chức khác.

FDCPA là luật Liên bang Mỹ giới hạn hành vi và hành động của những người đòi nợ là bên thứ ba, những người đang cố gắng thu nợ thay cho một người hoặc tổ chức khác. 

 Luật thực hành đòi nợ công bằng được Quốc hội Mỹ thông qua vào ngày 20/9/1977. 

Fair Debt Collection Practices Act (FDCPA)- Luật thực hành đòi nợ công bằng được Quốc hội Mỹ thông qua vào ngày 20/9/1977, nhằm xóa bỏ tình trạng bên đòi nợ sử dụng biện pháp đòi nợ tàn độc và khuyến khích cách đòi nợ hợp lý hơn.

Đạo luật trên nghiêm cấm một số hành vi đòi nợ có dấu hiệu quấy nhiễu và lừa đảo, bao gồm:

- Thời gian: Người đòi nợ chỉ được phép liên lạc với khách hàng vay tiền trong khung giờ từ 8h tới 21h. Nếu người vay tiền làm việc trong các khung giờ khác (làm đêm, nghỉ ngày), người đòi nợ cũng không được phép liên lạc trong thời điểm đó.

- Từ chối trả nợ: Nếu được thông báo bằng văn bản nói rõ rằng không muốn nhận thêm cuộc gọi hay từ chối trả nợ, bên đòi nợ không được phép liên lạc dưới bất cứ hình thức nào, ngoại trừ để cảnh báo rằng sẽ ngưng đòi nợ hoặc sẽ đâm đơn khởi kiện hoặc thực hiện các biện pháp thu nợ khác mà pháp luật cho phép.

- Khủng bố điện thoại: Bên đòi nợ không được phép khủng bố điện thoại khách hàng như nhắn tin hoặc nháy số khiến điện thoại đổ chuông liên tục với ý định quấy rầy, nhũng nhiễu hoặc làm phiền.

- Làm phiền nơi làm việc: Công ty đòi nợ không được tiếp cận khách hàng ở nơi họ làm việc sau khi đã được khách hàng cho biết hành vi đó là không được người chủ lao động cho phép hoặc chấp nhận.

- Luật sư đại diện: Hành vi liên lạc với khách hàng trong khi biết rõ rằng họ có luật sư đại diện cũng bị nghiêm cấm. Nếu khách hàng đã nói rõ có thuê luật sư đại diện bảo vệ quyền lợi của mình, bên đòi nợ buộc phải liên hệ với luật sư để giải quyết.

- Thông tin cá nhân của người nợ: Không được phép đưa tên tuổi, địa chỉ, thông tin cá nhân của khách hàng vào danh sách quỵt tiền và công khai danh sách đó.

- Nếu người thu nợ không có thông tin liên lạc của bên nợ, họ có thể gọi cho người thân, hàng xóm hoặc đồng nghiệp của bên nợ để tìm số điện thoại của bên nợ, nhưng họ không thể tiết lộ bất kì thông tin nào về khoản nợ, kể cả thực tế là họ gọi từ một cơ quan thu nợ (Người thu nợ chỉ có thể thảo luận về khoản nợ với bên nợ hoặc vợ/chồng của họ). Ngoài ra, người thu nợ chỉ có thể gọi cho bên thứ ba một lần.

- Người đòi nợ không thể đe dọa kiện bên nợ trừ khi họ thực sự có ý định đưa bên nợ đó ra tòa.

Hình phạt và đảm bảo thực hiện

Ban đầu, Ủy ban Thương mại Liên bang là cơ quan được trao thẩm quyền đảm bảo thực thi đạo luật này. Tuy nhiên, tới năm 2010, thẩm quyền này được chuyển cho Cục bảo vệ Tài chính người tiêu dùng.

Những người bị quấy rối có thể khởi kiện lên tòa án bang hoặc liên bang để được bồi thường từ thiệt hại gây ra từ hoạt động thu nợ của bên đòi nợ thuê (bao gồm thiệt hại thực tế, thiệt hại theo luật, phí thuê luật sư và phí thụ lý vụ việc).

Để được nhận bồi thường, người bị làm phiền không nhất thiết phải chứng minh được có thiệt hại thực tế xảy ra mà vẫn có thể được nhận khoản bồi thường theo luật có giá trị tối đa là 1.000 USD.

Bên đòi nợ thuê cũng có thể không bị phạt nếu họ chứng minh được hành động vi phạm của mình là không cố ý và vi phạm vẫn xảy ra mặc dù họ đã thực hiện mọi biện pháp để ngăn chặn hành động vi phạm ấy.

Luật cũng bảo vệ công ty đòi nợ, cụ thể nếu khách hàng thua kiện và tòa án nhận thấy hành vi khởi kiện của khách hàng là thiếu thiện chí và chủ yếu có mục đích nhũng nhiễu công ty đòi nợ, khách hàng sẽ bị yêu cầu trả phí thuê luật sư cho bị đơn.

Mộc Miên (Theo consumer.ftc.gov)

Tin nổi bật