Theo Điều 659 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc. Tuy ưu tiên chia thừa kế theo di chúc nhưng ở một số trường hợp, di sản thừa kế vẫn được chia theo pháp luật dù có di chúc.
Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ những trường hợp thừa kế theo pháp luật. Cụ thể, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Không có di chúc.
- Di chúc không hợp pháp.
- Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc là chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc nhưng không có quyền hưởng di sản hoặc là từ chối nhận di sản.
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản như sau:
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
- Phần di sản có liên quan tới phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật.
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Như vậy, dù đã có di chúc nhưng di sản thừa kế vẫn có thể được chia theo pháp luật trong các trường hợp dưới đây:
Theo Điều 630 Bộ luật Dân sự, di chúc hợp pháp cần phải có đủ các điều kiện như sau:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong lúc lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
- Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái quy định của luật.
Trong một số trường hợp, di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật dù có di chúc. Ảnh minh họa: Gia Đình & Xã Hội
Lưu ý, di chúc của người từ đủ 15 tuổi tới chưa đủ 18 tuổi phải lập thành văn bản, được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc là của người không biết chữ cần phải được người làm chứng lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc phải lập bằng văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng (theo Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Di chúc bằng văn bản mà không có công chứng, chứng thực sẽ chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Di chúc miệng sẽ chỉ được coi là hợp pháp nếu đáp ứng các điều kiện dưới đây:
- Người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất 2 người làm chứng.
- Ngay sau khi người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng cần phải ghi chép lại, cùng ký tên hoặc là điểm chỉ.
- Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng, cần phải công chứng hoặc là chứng thực xác nhận chữ ký hoặc là điểm chỉ của người làm chứng.
Theo quy định ở Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế là cá nhân:
- Phải còn sống tại thời điểm mở thừa kế.
- Đã sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản thừa kế chết.
Nếu như không phải là cá nhân thì cần phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm mà người có tài sản chết (theo Điều 611 Bộ luật Dân sự).
Di chúc sẽ không có hiệu lực toàn bộ hoặc là một phần nếu thuộc một trong các trường hợp nêu tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể:
- Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc là chết cùng thời điểm với người lập di chúc.
- Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại ở thời điểm mở thừa kế.
Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ những người không được quyền hưởng di sản, cụ thể như sau:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Nếu như thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì sẽ không được quyền hưởng di sản, ngoại trừ trường hợp người để lại di sản đã biết về hành vi của họ nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Ngoài ra, những người mà được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng từ chối nhận thì di sản sẽ được chia theo pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thừa kế thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
- Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau sẽ chỉ được hưởng thừa kế nếu như không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc là từ chối nhận di sản.
Theo quy định ở Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc là cùng một thời điểm với người để lại di sản, cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc là mẹ của cháu được hưởng nếu như còn sống.
Trong trường hợp cháu cũng chết trước hoặc là cùng một thời điểm với người để lại di sản, chắt sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc là mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.