Chiều 11/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Bổ sung biện pháp giám sát điện tử
Tham gia góp ý kiến, ĐBQH Vũ Huy Khánh (đoàn Tp.Hồ Chí Minh) bày tỏ nhất trí với việc cần thiết trình Quốc hội ban hành Luật phòng, chống ma túy (sửa đổi).
Theo đại biểu, diễn biến tình hình tội phạm ma túy dù nỗ lực kiểm soát, nhưng còn có những diễn biến phức tạp, có những vụ phạm tội về ma túy có tính chất rất nghiêm trọng, quy mô có tính chất quốc tế.
Đại biểu chỉ ra, hiện nay công tác xác định tình trạng nghiện và thi hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người không có nơi cư trú ổn định đang gặp rất nhiều khó khăn.
ĐBQH Vũ Huy Khánh (Ảnh: Quang Phúc).
Theo ông Khánh, mặc dù quy định rất rõ, rất cụ thể, đối với người có nơi cư trú ổn định thì việc quản lý không gặp nhiều khó khăn, nhưng đối với những trường hợp không có nơi cư trú ổn định thì lại gặp khó.
Và trong nhiều trường hợp đối tượng này bỏ trốn, đi khỏi địa phương và không khai báo tạm vắng thì công an cơ sở không thể tiến hành được việc xác định tình trạng nghiện và không thi hành được quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo ông địa bàn cấp xã hiện nay rất rộng, như vậy lực lượng công an cơ sở sẽ rất khó khăn trong việc này.
Cho rằng hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh việc chuyển đổi số, đại biểu đề xuất: "Nên áp dụng một hình thức có thể theo dõi thông qua các thiết bị điện tử. Một thiết bị gắn vào người, có thể như vòng gắn chip".
Đại biểu tin rằng với trình độ về mặt công nghệ hiện nay thì không khó, để mọi di biến động của đối tượng này ra khỏi địa bàn cần thiết phải ngăn ngừa thì cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng được.
ĐBQH Lê Nhật Thành (đoàn Tp.Hà Nội) nêu thực trạng lực lượng công an cấp xã gặp khó khăn khi nhiều người cai nghiện thay đổi nơi cư trú, bỏ trốn trong thời gian chờ lập hồ sơ.
Để giải quyết vấn đề này, ông đề xuất bổ sung biện pháp giám sát điện tử đối với người cai nghiện tại cộng đồng.
Đồng thời, cần có quy định quản lý người đã có kết quả xác định nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc ngay trong thời gian chờ hoàn tất thủ tục, tránh tình trạng bỏ trốn.
Đại biểu cũng chỉ ra bất cập khi nhiều đối tượng đang cai nghiện bắt buộc cố tình phạm tội hình sự với mức án nhẹ để được miễn thời gian cai nghiện còn lại.
Ông đề xuất sau khi chấp hành xong án phạt tù, nếu thời gian ở tù ngắn hơn thời gian cai nghiện còn lại, người đó phải tiếp tục thi hành quyết định cai nghiện.
Bên cạnh đó, ông đề nghị luật hóa các quy định về tổ chức lao động trị liệu và bổ sung chế tài xử lý đối với người vi phạm quy trình cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng để tăng tính răn đe.
Cần tiêu chí cụ thể để tránh việc lạm dụng
Tham gia góp ý kiến, ĐBQH Nguyễn Hữu Chính (đoàn Hà Nội) đồng tình với việc sửa đổi Luật Phòng, chống ma tuý để phù hợp với điều kiện hiện nay và phù hợp với các điều ước quốc tế.
Ông nêu thực tế, chỉ có khoảng 10% người nghiện được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, trong khi 90% vẫn ở ngoài xã hội, cho thấy sự hạn chế của luật cũ.
Đại biểu Nguyễn Hữu Chính đánh giá cao dự thảo lần này đã quy định chi tiết hơn, chuyển trọng tâm từ việc chỉ "chống" sang cơ chế kết hợp cả "phòng" và "chống".
Nếu như trước đây, công tác chủ yếu tập trung xử lý sau khi người nghiện đã phạm tội thì nay, dự thảo đã chú trọng hơn đến công tác tuyên truyền, giáo dục.
ĐBQH Nguyễn Hữu Chính (Ảnh: Như Ý).
Luật mới cũng phân định rõ quy trình cai nghiện cho các lứa tuổi khác nhau (từ 12 đến dưới 18 tuổi và từ 18 tuổi trở lên), đồng thời quy định cụ thể các hình thức cai nghiện như bắt buộc, tự nguyện, tại gia đình hay cơ sở giáo dục, cùng các chế tài xử lý vi phạm.
Đi sâu vào các quy định cụ thể, đại biểu Nguyễn Hữu Chính băn khoăn về căn cứ khoa học của thời hạn cai nghiện 24-36 tháng tại Điều 28, quy định thời hạn cai nghiện 24 tháng cho lần đầu và 36 tháng cho các lần sau.
Ông cho rằng mỗi người nghiện có một cơ địa khác nhau, mục đích cuối cùng là giúp họ "khỏi hẳn", vì vậy việc áp một khung thời gian cứng có thể không hiệu quả. Ông đề nghị xem xét lại, có thể quy định thời hạn đến khi người nghiện thực sự hồi phục.
Đại biểu cũng chỉ ra mâu thuẫn tiềm tàng với Bộ luật Hình sự vừa được sửa đổi, vốn quy định xử lý hình sự người tái nghiện, trong khi dự thảo luật này lại cho phép gia hạn thời gian cai nghiện lên 36 tháng.
Đối với quy trình cai nghiện tự nguyện tại gia đình, ông cho rằng một số yêu cầu như "lao động trị liệu, học nghề, chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng" là không phù hợp và khó thực hiện trong môi trường gia đình.
Về thủ tục hành chính, ông đề nghị giảm bớt các bước rườm rà, chẳng hạn như việc công an xã phải lập danh sách gửi lên công an cấp tỉnh duyệt mới được đưa đi cai nghiện. Theo ông, nên ủy quyền toàn bộ cho cấp xã để quy trình nhanh gọn, hiệu quả hơn.
Đại biểu cũng đặc biệt lưu ý về việc cấp giấy chứng nhận hoàn thành cai nghiện, nhấn mạnh rằng giấy chứng nhận phải mang ý nghĩa về nội dung, tức là người nghiện đã khỏi hẳn chứ không chỉ là hình thức xác nhận đã hoàn thành đủ thời gian quy định.
Góp ý về Điều 37 liên quan đến hoãn, miễn, tạm đình chỉ thi hành quyết định cai nghiện, ông cho rằng nhiều thuật ngữ còn trừu tượng, dễ dẫn đến tiêu cực. Các khái niệm như "ốm nặng", "gia đình có khó khăn đặc biệt", "mắc bệnh hiểm nghèo" cần được định nghĩa rõ ràng, có tiêu chí cụ thể để tránh việc lạm dụng.
Ông cũng đặt ra các tình huống thực tế như người được miễn cai nghiện vì mắc bệnh hiểm nghèo nhưng sau đó chữa khỏi thì xử lý thế nào? Ai là cơ quan có thẩm quyền xác nhận một người "không còn nghiện"?.
Với trường hợp được miễn vì mang thai, nếu người đó bị sảy thai hoặc sau khi sinh con vẫn tiếp tái nghiện thì có được miễn nữa hay không? Đây là những vấn đề cần được luật hóa một cách chặt chẽ.