Vấn đề y học nghiêm túc nhưng còn nhiều định kiến
PGS.TS Nguyễn Quang, Chủ tịch Hội Y học Giới tính Việt Nam, Giám đốc Trung tâm Nam học (Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức) cho biết, rối loạn tình dục nữ là vấn đề y học nghiêm túc, nhưng ở Việt Nam vẫn ít được bàn luận và thường bị xem nhẹ.
Các nghiên cứu quốc tế cho thấy, tỷ lệ rối loạn tình dục nữ dao động từ 25 – 69%. Tình trạng này thường gặp ở phụ nữ sau sinh, điều trị vô sinh, mắc bệnh mạn tính hoặc từng trải qua Covid-19. Biểu hiện phổ biến gồm: giảm ham muốn, khô âm đạo, khó đạt cực khoái và đau khi quan hệ. Đây là những triệu chứng ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, sức khỏe tinh thần và cả sự gắn kết xã hội.
Theo nghiên cứu, cứ 10 phụ nữ thì có tới 4 người từng trải qua rối loạn tình dục, nghĩa là trong một nhóm nhỏ, có thể đã có vài người đang âm thầm chịu đựng.
Tuy nhiên, rào cản văn hóa và tâm lý khiến nhiều phụ nữ ngại chia sẻ, chỉ tìm đến bác sĩ khi vấn đề đã trở nên nghiêm trọng. Trong khi đó, hệ thống y tế còn thiếu các phòng khám chuyên sâu, đội ngũ bác sĩ ít khai thác tiền sử tình dục và dịch vụ phục hồi chức năng gần như bỏ ngỏ.
PGS.TS Nguyễn Quang nhấn mạnh: “Sức khỏe tình dục là chìa khóa hạnh phúc, đừng để bị bỏ quên. Muốn cải thiện, cần một chiến lược toàn diện từ chuẩn hóa chẩn đoán, đào tạo nhân lực đa chuyên khoa, mở rộng phòng khám đến truyền thông cộng đồng để giảm kỳ thị".
Cứ 10 phụ nữ thì có tới 4 người từng trải qua rối loạn tình dục, nghĩa là trong một nhóm nhỏ, có thể đã có vài người đang âm thầm chịu đựng. Ảnh minh họa
ThS. Nguyễn Quốc Linh, Trung tâm Y học Giới tính Hà Nội, Bệnh viện Chuyên khoa Nam học và Hiếm muộn Hà Nội phân tích, phụ nữ không chỉ cần sức khỏe thể chất, mà còn cần sự đồng cảm, an toàn và gắn kết tinh thần. Thiếu đi những điều đó, khoái cảm tình dục khó có thể trọn vẹn.”
Theo bác sĩ Linh, nguyên nhân rối loạn tình dục nữ có thể bắt nguồn từ stress, trầm cảm, mâu thuẫn gia đình, sang chấn tâm lý hoặc áp lực xã hội. Đặc biệt, “cái bóng văn hóa Á Đông” khiến phụ nữ chịu áp lực phục tùng, trong khi nhu cầu và trải nghiệm của họ bị bỏ quên. Sự im lặng kéo dài tạo ra vòng luẩn quẩn: càng né tránh, vấn đề càng trầm trọng.
Không chỉ vậy, sự thiếu hụt dịch vụ tư vấn, trị liệu chuyên biệt cũng khiến nhiều phụ nữ loay hoay, không biết tìm đến đâu khi gặp trục trặc. ThS. Linh nhấn mạnh: “Chúng ta chưa coi tình dục là một phần của sức khỏe toàn diện. Điều này khiến nhiều phụ nữ phải chịu đựng trong cô lập.”
Các chuyên gia cho rằng, rối loạn tình dục nữ không thể giải quyết chỉ bằng thuốc hay can thiệp y khoa. Liệu pháp tâm lý đóng vai trò trung tâm, giúp tháo gỡ những nút thắt tinh thần và cảm xúc.
Trị liệu có thể bao gồm: tư vấn cá nhân, trị liệu cặp đôi, kỹ thuật thư giãn, giảm stress hoặc tái cấu trúc nhận thức. Quan trọng hơn, quá trình điều trị cần có sự phối hợp giữa bác sĩ, nhà tâm lý và người bạn đời. “Nếu chỉ tập trung vào người phụ nữ mà bỏ qua mối quan hệ vợ chồng, chúng ta đã bỏ lỡ một nửa bức tranh,” ThS. Linh phân tích.
Bên cạnh đó, giáo dục sức khỏe tình dục là nền tảng để nâng cao nhận thức, giúp phụ nữ hiểu rõ cơ thể, nhu cầu và quyền lợi chính đáng của mình.
ThS. Nguyễn Quốc Linh, Trung tâm Y học Giới tính Hà Nội, Bệnh viện Chuyên khoa Nam học và Hiếm muộn Hà Nội
Từ góc độ xã hội, chuyên gia cho rằng cần thay đổi nhận thức cộng đồng. Tình dục không chỉ là vấn đề sinh sản hay đạo đức, mà còn là một phần của chất lượng sống. Điều này đòi hỏi chính sách y tế cởi mở hơn, cùng với các chiến dịch truyền thông và giáo dục cộng đồng.
Ngoài ra, Việt Nam cần xây dựng hệ thống dịch vụ tư vấn – trị liệu tình dục chính thống, có chuyên gia được đào tạo bài bản. Đây là điều kiện để phụ nữ tiếp cận sự hỗ trợ chuyên nghiệp, thay vì dựa vào thông tin trôi nổi trên mạng.
Quan trọng hơn cả, bản thân phụ nữ cần dũng cảm lên tiếng. “Sự im lặng chỉ khiến vấn đề trầm trọng thêm. Khi phụ nữ biết coi trọng sức khỏe tình dục của mình, xã hội cũng sẽ thay đổi cách nhìn", ThS. Linh nhấn mạnh.