Ngày 25/7/1944, chiếc máy bay tiêm kích phản lực đầu tiên trên thế giới của Không quân Đức Messerchmit -262 đã xuất kích.
|
Messerchmit -262: Chiến đấu cơ phản lực đầu tiên trên thế giới |
Nó đã phát hiện một chiếc máy bay ném bom tốc độ cao Mosquito của Không quân Anh trên bầu trời Munich. Mặc dù có tốc độ cao và sau nhiều lần cơ động nhưng viên phi công Đức đã không hạ được chiếc máy bay này của Anh.
Mặc dù vậy, ưu thế kỹ thuật vượt trội của chiếc máy bay phản lực mới này trước các máy bay của đồng minh là một thực tế không thể bàn cãi. Nhưng có lẽ do chúng xuất hiện quá muộn nên đã không trở thành loại “ vũ khí thần kỳ” để có thể tạo nên được bước ngoặt cơ bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Có lẽ Đức quốc xã quá nóng vội nên Me-262, dù chưa qua tất cả các thử nghiệm cần thiết nhưng vẫn được đưa vào tham chiến. Hậu quả là đã xảy ra nhiều vụ tai nạn ngoài tác chiến làm thiệt mạng một số phi công Đức.
Chỉ trong thời gian từ năm 1944 đến 1945, các nhà máy sản xuất máy bay của Đức đã xuất xưởng được 1.433 chiếc Me-262 và bàn giao cho quân đội để đưa ra mặt trận. Me-262 đã trở thành loại máy bay phản lực được sản xuất nhiều nhất trong Thế chiến thứ hai.
Chiếc máy bay này xứng đáng được ghi vào lịch sử hàng không thế giới vì nó đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử các cuộc không chiến.
Tổng công trình sư Yakovlev phản đối “nhân bản” Me-262
Sau chiến tranh , Liên Xô nghĩ ngay đến việc sản xuất hàng loạt Me-262.
Bộ trưởng Bộ công nghiệp hàng không Liên Xô P.V. Demetyev cho rằng: “Có thể triển khai sản xuất hàng loạt máy bay phản lực Me-262 tại nhà máy số 381 ở Mátxcơva và số 292 ở Saratov. Nhiệm vụ nghiên cứu kết cấu, bản vẽ kỹ thuật và các phương án cải tiến để lắp đặt các trang thiết bị và vũ khí của Liên Xô cho loại máy bay này đã được giao cho Tổng công trình sư Miasishev và đồng chí này đã bắt đầu triển khai công việc”.
|
Tổng công trình sư A.Yakovlev kiên quyết phản đối ý tưởng "nhân bản" Me-262. |
Tuy nhiên, một tổng công trình sư hàng không có uy tín là A.Yakovlev lại kiên quyết phản đối ý tưởng này.
Tại một cuộc họp do Stalin chủ trì về các vấn đề liên quan đến hoạt động của ngành công nghiệp hàng không, chủ tọa có đề cập đến vấn đề sản xuất hàng loạt theo mẫu Me-262 chiến lợi phẩm mà Quân đội Liên Xô thu được.
Khi được Stalin hỏi quan điểm của mình về vấn đề này, A. Yakovlev đã trả lời là ông đã nghiên cứu loại máy bay này và cho rằng chúng không hoàn thiện, khó điều khiển, không ổn định khi bay và đã có rất nhiều tai nạn xảy ra tại Đức.
Ngoài ra, việc sản xuất hàng loạt Me-262 sẽ gây ra những thiệt hại lớn đối với công tác nghiên cứu, sản xuất máy bay phản lực trong nước.
Stalin đồng ý với ý kiến trên và ý tưởng sản xuất hàng loạt Me-262 của Bộ trưởng công nghiệp hàng không Demetyev bị bác bỏ.
“Junker” đến Liên Xô
Tại khu vực Liên Xô chiếm đóng trên đất Đức có rất nhiều các nhà máy công nghiệp hàng không. Phần lớn trong số đó là của những công ty rất mạnh như “Junker”, “Heinkel”, “Focke Wulf” và “ Dornier”.
|
Chiến đấu cơ phản lực He-280 của Đức Quốc xã |
Tuy nhiên, phần lớn các nhà máy trên đã bị tàn phá nặng nề sau các cuộc ném bom của quân đồng minh , một số đã trở thành đống gạch vụn. Những trang thiết bị quan trọng, một số mẫu thiết kế kỹ thuật mới nhất cùng các tài liệu kỹ thuật đã bị đưa về phương Tây. Một loạt các nhà khoa học và các công trình sư nổi tiếng của Đức như Prandtl, Betz, Busemann, Heinkel, Lippish và nhiều người khác cũng có số phận tương tự.
Ngay sau khi Quân đội Liên Xô tiếp quản, tất cả những gì có thể dùng được tại các nhà máy nói trên được đều được tháo dỡ và đưa về Liên Xô. Đến giữa năm 1946, tổng cộng đã có 123.000 máy công cụ và các trang thiết bị công nghiệp khác được đưa từ Đức về Liên Xô.
Chính từ những máy móc và trang thiết bị này mà Liên Xô đã xây dựng được 10 nhà máy, trong đó có 2 nhà máy chế tạo máy bay và 3 nhà máy chế tạo động cơ.
|
Máy bay ném bom phản lực Arado -234X |
Dĩ nhiên, các chuyên gia Liên Xô cũng ngay lập tức nghiên cứu những thành tựu của khoa học và kỹ thuật hàng không Đức. Một trong những thành tựu quan trọng nhất được đặc biệt quan tâm - đó là chế tạo máy bay phản lực .
Những phát hiện đáng giá
Tháng 3/1945, khi số phận của nước Đức cơ bản đã được định đoạt, Hội đồng quốc phòng Liên Xô đã ra sắc lệnh về việc đưa các trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật về radar từ các nhà máy của Đức về Liên Xô để ngiên cứu.
|
"Bom bay" V-1 của Đức Quốc xã từng reo rắc kinh hoàng ở thủ đô London |
Những nhà máy được quan tâm hàng đầu trong danh mục này là các nhà máy sản xuất “V-1” và “V-2” ( Vergeltung Swaffe).
Đến đầu tháng 5/1945, khi những trận chiến đẫm máu còn đang diễn ra tại Berlin, các nhóm chuyên gia Liên Xô đã bắt tay vào nghiên cứu những căn cứ bí mật tại Đức.
Những “chiến lợi phẩm” tìm được thật quý giá. Trong số đó có các mẫu máy bay phản lực Me-163, Me-262, Arado -234X, một số động cơ máy bay còn nguyên vẹn, toàn bộ các bản báo cáo về những thử nghiệm máy bay và các bộ phận của nó trong ống khí động lực tốc độ cao DVL, các mẫu radar lắp trên máy bay và rada mặt đất, mẫu máy bay-đầu đạn (dạng tên lửa có cánh) có người lái V-1, thân của máy bay He-152.
Chúng lập tức được đưa về Moscow.
Viện sỹ G.Biushgens nhớ lại : “ Sau khi kết thúc chiến tranh, các nhà khoa học của TSAGI ( Viện khí- thủy lực học trung ương ) và một số chuyên gia hàng không đầu ngành có điều kiện tiếp cận với các tài liệu chiến lợi phẩm về nghiên cứu hàng không tại Viện DVL của Đức ở Adlershof. Trong những tài liệu này, ngoài các bản báo cáo kết qủa thử nghiệm còn có các mô hình máy bay và các số liệu khác. Mới đầu các chuyên gia TSAGI chưa đáng giá được hết giá trị của các tài liệu trên. Nhưng ngay sau đó, nhiều người trong số họ đã nhanh chóng nhận thức được triển vọng của các hướng nghiên cứu này. Công tác nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm tiếp theo trên cơ sở các tài liệu của Đức được giao cho tập thể các nhà khoa học có uy tín nhất của viện”.
Nghiên cứu các thiết kế của đối thủ
Ngoài các tài liệu kỹ thuật, các chuyên gia Xô Viết còn tìm thấy được một mẫu chưa hoàn chỉnh của máy bay phản lực một động cơ He-162, 3 máy bay tiêm kích phản lực hai động cơ đã bị hư hại nhẹ He-280. Tại một sân bay tại ngoại ô Praha, còn 2 chiếc máy bay phản lực Me-262 tương đối nguyên vẹn và 4 chiếc máy bay cùng loại trên nhưng đã bị tháo rời.
|
Người Mỹ đã dựa vào tên lửa V-2 của Đức Quốc xã để phát triển ngành hàng không vũ trụ. |
Đây là một nội dung trong các báo cáo của các nhà khoa học Xô Viết : “ Kỹ thuật phản lực tại Đức thời gian gần đây đã có những bước phát triển rất mạnh. Kết quả nghiên cứu sơ bộ những mẫu phương tiện kỹ thuật phản lực chiến lợi phẩm thu được của Đức như: máy bay tiêm kích phản lực , máy bay cường kích, máy bay ném bom phản lực, các động cơ tua bin khí, động cơ phản lực nhiên liệu lỏng, các đầu đạn phản lực được điều khiển bằng sóng vô tuyến, những đầu đạn phản lực không điều khiển ( tầm xa và phòng không), tên lửa có cánh và bom bay có điều khiển và không điều khiển cho thấy rằng - việc ứng dụng kỹ thuật phản lực trong hàng không và pháo binh đã được tiến hành với quy mô lớn ở Đức và người Đức đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng trong lĩnh vực này”.
Để nghiên cứu các “thành tựu của kẻ thù ” và khả năng ứng dụng chúng, chính phủ Liên Xô đã ra sắc lệnh thành lập một Ủy ban liên ngành nghiên cứu kỹ thuật phản lực trực thuộc Ủy ban quốc phòng ngay vào mùa hè năm 1945.
Chỉ đến tháng 8/1945, Liên Xô đã tiến hành thử nghiệm động cơ tuabin phản lực Jumo 004, VMTG 003 và Heinkel S-8a, sau đó chuẩn bị xuất xưởng hàng loạt các động cơ Jumo 004 và BMW 003 . Nhà máy thử nghiệm sô 51 bắt đầu sản xuất các tên lửa có cánh “10X” theo mẫu tên lửa V-1 của Đức.
Các nhà khoa học “chiến lợi phẩm”
Cũng ngay trong năm 1945, một số nhà lãnh đạo Liên Xô đã đưa ra ý tưởng sử dụng các chuyên gia Đức để phát triển kỹ thuật hàng không phản lực tại Liên Xô. Bộ trưởng Bộ công nghiệp hàng không Shakhurin ( mới) đã gửi Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô một bức thư mật với đề nghị như trên.
Trong thư đó có đoạn: “ Một số lượng lớn các nhà khoa học và chuyên gia Đức trong lĩnh vực hàng không hiện đang nằm trong tay chúng ta. Họ có những kiến thức rất sâu và uyên bác tích lũy được trong quá trình làm việc tại các cơ quan nghiên cứu và thử nghiệm của Đức. Xét từ góc độ này, sẽ là rất hợp lý nếu thành lập một số cơ quan theo một quy chế đặc biệt (do Bộ nội vụ-NKVD - quản lý ) theo mô hình các cơ quan tương tự ( của Đức) trên lãnh thổ Liên Xô hoặc trên khu vực lãnh thổ Đức mà chúng ta đang chiếm đóng để các nhà khoa học Đức có thể tiến hành các công tác nghiên cứu thử nghiệm khoa học theo yêu cầu của chúng ta”.
Ý tưởng này được báo cáo ngay với Stalin và được chấp thuận. Việc tìm kiếm và tập trung các nhà khoa học Đức được tiến hành bằng nhiều cách khác nhau. Một số nhà khoa học như cựu lãnh đạo cơ quan thử nghiệm của hãng “Junker”, tiến sỹ B. Baade tự nguyện hợp tác để tiếp tục các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực hàng không .
Chuyên gia khí động học của Hãng “ Heinkel” là Z. Giunter cũng chủ động đề nghị hợp tác với chính quyền Xô Viết. Nhiều người khác thì đơn giản làm việc vì tiền và các khẩu phần lương thực. Một số khác nữa thì buộc phải “hợp tác” vì đã nghe quá nhiều về “ sự cứng rắn” của Bộ nội vụ Liên Xô (NKVD) nên sợ hãi không dám từ chối khi được gọi.
Lịch sử im lặng
Tính tổng cộng đã có hơn 1.000 các nhà khoa học Đức được Liên Xô tuyển dụng . Họ được đưa về Berlin , Dessau, Leizig, Halle, Strafurt và Rostock. Mỗi người tự viết một bản tường trình về quá trình làm việc tại các cơ sở nghiên cứu khoa học và các công trình nghiên cứu của mình.
Sau khi nghiên cứu các bản tường trình, các chuyên gia Xô Viết đưa ra các kết luận và giao nhiệm vụ mới cho các nhà khoa học “ chiến lợi phẩm”. Các kết quả nghiên cứu của họ được chuyển cho Bộ công nghiệp hàng không, các viện nghiên cứu khoa học để xem xét và ứng dụng.
Vào cuối tháng 8/1946, những nhà khoa học Đức “có giá” nhất và nhiều chuyên gia Đức có triển vọng được “ lựa chọn” đưa về Liên Xô. Có tới gần 7.000 người thuộc diện này. Những chuyên gia sản xuất máy bay được đưa về nhà máy thử nghiệm số 01 ở làng Podberezie ven hồ Mátxcơva.
Các chuyên gia về động cơ phản lực tuabin khí và trang thiết bị hàng không được điều đến nhà máy số 02 cách không xa Kuibyshev ( nay là Samara – ven sông Volga), các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về động cơ được bố trí làm việc tại các xí nghiệp ở ngoại ô Moscow như nhà máy sô 500 ở Tushina và nhà máy số 456 ở Khimki.
Đã 70 năm trôi qua nhưng cho đến nay, không ai biết là các nhà khoa học và các chuyên gia hàng không Đức đã có những đóng góp như thế nào cho sự phát triển của ngành chế tạo máy bay Liên Xô và họ đã gợi ý cho các đồng nghiệp Xô Viết những ý tưởng gì.
Không một thông tin nào về những đóng góp của họ. Ít nhất là cho đến thời điểm này.