Trong chương trình Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời trên VTV1 tối 29/6, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) Nguyễn Quân đã giải đáp nhiều thắc mắc của các ngư dân và nông dân về công nghệ chế biến, bảo quản thủy hải sản và nông sản sau thu hoạch để có sản phẩm chất lượng tốt hơn, bán được giá cao hơn, tiến đến thâm nhập vào các thị trường quốc tế.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân |
Tôi là 1 ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương. Cá của tôi bắt lên rất ngon tuy nhiên giá bán chỉ được bằng 1/3, 1/4 so với cá ngừ cùng loại của Nhật Bản. Từ thông tin trên báo chí tôi biết rằng nguyên nhân là do cách chế biến, bảo quản của chúng tôi chưa chuẩn nên giá không được cao, Bộ trưởng có thể cho người tìm hiểu và chuyển giao công nghệ cho chúng tôi để chúng tôi bán cá với giá cao hơn được không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Chúng tôi chia sẻ với bà con về việc cá ngừ bán giá thấp do chúng ta không có công nghệ bảo quản hiện đại. Điều này xuất phát từ việc quy mô đánh bắt của chúng ta còn nhỏ lẻ, chưa có các tàu dịch vụ giúp bà con có thể bảo quản sơ bộ cá ngừ sau khi đánh bắt, mà thời gian từ khi đánh bắt tới khi về đến đất liền thường mất nhiều ngày, nếu bảo quản bằng phương pháp cổ điển thì khi về đến bờ, cá đã bị mất phẩm chất khá nhiều, thường bán với giá rẻ bằng 1/3 – 1/4 so với cá tươi ngon.
Cách đây 2 năm, chúng tôi đã tiếp nhận công nghệ do đại sứ quán Nhật Bản và bộ phận KHCN ở Nhật chuyển về, đó là công nghệ bảo quản cá ngừ cũng như các loại thủy hải sản khác lâu dài và giữ nguyên được chất lượng như vừa đánh bắt.
Chúng tôi đã thí nghiệm bảo quản thành công với cá ngừ, tôm sú và một số loại nông sản khác, tuy nhiên để áp dụng rộng rãi thì cần chuyển giao công nghệ. Trước mắt chúng tôi đã phối hợp với tỉnh Phú Yên sẽ xây dựng nhà máy bảo quản cá ngừ cho ngư dân ở Phú Yên, Bình Định. Tuy nhiên bà con cần có quy trình bảo quản sơ bộ chặt chẽ để rút ngắn thời gian từ khi đánh bắt xong đến khi về nhà máy chế biến, như vậy cần có doanh nghiệp hoặc có sự hỗ trợ nhà nước đầu tư cho 1 tàu dịch vụ.
Hiện nay, chúng tôi đã được phía Nhật Bản hỗ trợ một công nghệ bảo quản cá ngừ. Chúng tôi đang nghiên cứu việc làm đá lạnh từ nước biển để có thể làm lạnh ở nhiệt độ sâu hơn, giúp cho bảo quản cá ngừ ở bước sơ chế tốt hơn.
Chúng tôi trồng 1 cây tỏi nắng cháy da, cháy thịt nhưng giá bán tỏi thì chỉ 30.000 đồng, nhiều nhất là 50.000 đồng/kg, nhưng tôi được biết chỉ với công nghệ chế biến tỏi trắng thành tỏi đen giá lên tới cả 5 triệu đồng/kg. Công nghệ gì mà hay thế? Bộ trưởng có thể chỉ cho chúng tôi công nghệ đó để có thể bán với giá cao hơn?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Học viện Quân y đã thành công trong việc chế biến tỏi trắng thành tỏi đen với công nghệ đơn giản là công nghệ lên men với nhiệt độ và độ ẩm thích hợp nhưng giá trị của nó tăng lên rất nhiều lần, có thể nói hàng trăm lần. Lý do mà hiện nay chúng ta chưa đưa vào sản xuất đại trà được là tỏi nếu chế biến ở quy mô công nghiệp làm nguồn dược liệu cho công nghiệp dược phẩm hoặc dùng cho các ngành công nghiệp khác thì nó phải có chất lượng tương đối đồng đều và nuôi trồng theo quy trình khoa học đảm bảo chất lượng. Ví dụ như giống phải đồng đều, quy trình bảo vệ thực vật phải an toàn, sau đó đầu tư hệ thống chế biến. Công nghiệp dược phẩm hiện nay chưa đủ nhu cầu để tiêu thụ với số lượng lớn nên các doanh nghiệp còn e ngại trong quá trình đầu tư.
Hiện nay Học viện Quân y đã làm chủ công nghệ này, nếu doanh nghiệp nào ở vùng trồng tỏi có mong muốn được xây dựng dây chuyền bảo quản, chế biến phục vụ bà con nông dân thì chúng tôi sẵn sàng chuyển giao công nghệ và cùng hợp tác với doanh nghiệp đó đầu tư xây dựng dây chuyền chế biến tỏi trắng thành tỏi đen.
Hôm trước tôi xem bản tin Tài chính kinh doanh thấy nói 5 quả vải ở Nhật Bản có giá bán mấy trăm nghìn, vậy mà 1kg vải của chúng tôi ở đây chỉ có giá 7 – 8.000 đồng. Bộ trưởng xem có cách nào giữ cho vải của chúng tôi tươi để mang sang Nhật bán được không? Chúng tôi chăm bón cả vụ vải mấy tháng trời vất vả lắm nhưng đến khi thu hoạch thì lại lỗ, phải bán đổ, bán tháo đi.
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Cách đây 3 năm, Bộ KHCN đã hướng dẫn người nông dân ở vùng vải thiều Lục Ngạn xây dựng chỉ dẫn địa lý, nhờ đó giá bán đã cao hơn và bà con bớt phải bán đổ bán tháo khi vào mùa vải thiều chín rộ. Tuy nhiên đấy chỉ là giải pháp rất ngắn hạn. Năm ngoái, chúng tôi đã hợp tác với Nhật Bản nhập công nghệ về tế bào sống.
Công nghệ này đảm bảo những sản phẩm được bảo quản sau thời gian rất dài, thậm chí sau hàng chục năm vẫn còn giữ được phẩm chất tươi nguyên như khi vừa được thu hái, vừa được sản xuất. Đối với quả vải, chúng tôi đang đàm phán với Nhật Bản bởi một loại quả của chúng ta muốn vào được thị trường của một nước phát triển phải qua rất nhiều công đoạn, phải được họ chấp nhận.
Hiện nay chúng ta thí điểm đưa cho họ một sản phẩm mẫu và sau khi họ chấp nhận, họ thấy có khả năng tiêu thụ thì chúng ta mới ký được hợp đồng. Chắc chắn là người nông dân ở khu vực trồng vải của chúng ta phải tổ chức sản xuất lại, phải gieo trồng chăm bón cây vải theo quy trình, trước mắt là VietGAP, về lâu dài là tiêu chuẩn Global quốc tế, khi đó quả mới có chất lượng đồng nhất và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Năm nay, container đầu tiên với 10 tấn quả vải thiều Lục Ngạn tuần tới sẽ lên đường sang Nhật Bản, và nếu được Nhật Bản chấp nhận, năm sau chúng tôi sẽ giúp bà ccon nông dân tiêu thụ vải vào thị trường Nhật Bản.
Trong chương trình Dân hỏi – Bộ trưởng trả lời lần trước tôi thấy Bộ trưởng nói đã đầu tư nhiều triệu đô la vào đề án bảo quản sau thu hoạch cho các sản phẩm nông nghiệp, vậy xin hỏi Bộ trưởng đề án ấy đi đến đâu rồi?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đó chính là công nghệ về tế bào sống vừa nói ở trên. Tôi xin đính chính là không phải nhiều triệu đô la mà chưa đến 1 triệu đô la, bao gồm cả công đoạn chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản, đào tạo cán bộ và tiến hành các thí nghiệm ban đầu để làm chủ công nghệ của họ. Đến giai đoạn 2, giai đoạn 3 chúng ta sẽ nhận chuyển giao công nghệ toàn bộ. Hy vọng là trong năm tới sẽ có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đầu tư công nghệ này và giúp cho bà con nông dân.
Tôi nghe nói chính quyền quê tôi cũng đang làm đề án mua công nghệ chế biến sau thu hoạch bảo quản quả vải. Vậy đề án của TƯ có chồng chéo với đề án của địa phương không, có ai quy hoạch không, có lãng phí không? Liệu có xảy ra tình trạng no dồn đói góp hay không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Chắc chắn không có tình trạng đó vì tập đoàn công nghệ của Nhật Bản thỏa thuận với Bộ KHCN Việt Nam là đầu mối duy nhất nhận chuyển giao công nghệ, từ đây chúng tôi sẽ hợp tác với doanh nghiệp, chuyển giao cho doanh nghiệp, bất kể địa phương nào muốn sử dụng công nghệ này đều phải hợp tác với Bộ KHCN Việt Nam vì vậy sẽ không có tình trạng địa phương và Trung ương cùng đầu tư.
Khán giả Hoàng Thịnh ở Đắc Lắc gửi đến đề tài nghiên cứu công nghệ thiết kế và chế tạo máy sấy quả cà phê tươi đã được Quỹ Phát triển khoa học công nghệ quốc gia ký hợp đồng, kinh phí theo chương trình 119 của Chính phủ là 193.445.000 đồng. Sau khi thanh lý, còn 41 triệu nữa thì phải giải ngân cho khán giả này nhưng sau 2 năm ông vẫn chưa nhận được tiền với lý do: Quy định của Bộ Tài chính là tiền không chuyển qua tài khoản ngân hàng mà chỉ chuyển qua tài khoản của kho bạc. Sau khi ông Thịnh mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và gửi số Tài khoản đến quỹ thì được quỹ trả lời là “hết tiền”. Hành xử của Quỹ Phát triển KHCN đúng hay sai? Ai là người chịu trách nhiệm trả số tiền còn lại cho ông Hoàng Thịnh?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đúng như bác Hoàng Thịnh nói, khi bác mở tài khoản ở ngân hàng thì theo quy định của Bộ Tài chính, tiền của sự nghiệp khoa học không được chuyển qua tài khoản ngân hàng mà phải chuyển vào tài khoản kho bạc nhà nước địa phương để họ có thể quản lý được.
Sau khi bác Hoàng Thịnh mở được tài khoản kho bạc thì được thông báo là chưa có tiền hoặc hết tiền, điều này phản ánh thực tế hiện nay là cơ chế tài chính dành cho KHCN vẫn còn những bất hợp lý. Ví dụ, chúng ta đã đưa ra Quỹ Phát triển KHCN quốc gia, về lý mà nói thì tiền phải được cấp vào quỹ và quỹ sẽ tài trợ cho các đề tài, dự án.
Như vậy là tiền chờ đề tài nhưng thực tế trong mấy năm vừa rồi chưa năm nào quỹ nhận được kinh phí đúng như tính chất của quỹ. Vì vậy mà thời điểm bác Thịnh mở được tài khoản ở kho bạc rồi thì quỹ chưa được cấp vốn, đó là năm 2012. Vào thời điểm đó thì tiền của năm 2012 chưa được cấp. Đến năm 2013 thì quỹ mới được cấp vốn và mới thanh toán được cho bác. Chúng tôi sẽ kiểm tra việc này, tuy nhiên tôi tin tưởng rằng bác Thịnh đã nhận được tiền vì kinh phí năm 2013 đã được cấp vào quỹ và quỹ đã thanh toán hết nợ nần cho các đề tài, dự án của các năm trước.