Theo Người đưa tin, lợn biển (tên khoa học Trichechus) là động vật có vú trong bộ Sirenia, sống trong nước biển. Có 4 loài lợn biển còn tồn tại là lợn biển Amazon, lợn biển Tây Ấn, lợn biển Tây Phi và bò biển.
Lợn biển từng bị nhầm lẫn là nàng tiên cá tròn quay trong những ghi chép của nhà thám hiểm, nhà hàng hải nổi tiếng Christopher Columbus và ông miêu tả rằng "những nàng tiên cá này họ không đẹp bằng một nửa những gì người ta miêu tả trong những bức tranh".
Mặc dù có thể nặng hơn 500 kg, nhưng bộ não của lợn biển khá nhỏ, chỉ khoảng 0,3% trọng lượng cơ thể. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng kém thông minh. Lợn biển có trí nhớ tốt và có thể học hỏi từ con người.
Lợn biển (tên khoa học Trichechus) là động vật có vú trong bộ Sirenia, sống trong nước biển.
Lợn biển là loài động vật ăn cỏ, đặc biệt là cỏ biển. Với vẻ bề ngoài mập mạp, chậm chạp, giống như loài bò trên đất liền nên chúng có tên gọi trong tiếng anh là "Sea cow".
Lợn biển không có răng nanh như bò biển và thậm chí chúng còn không có răng cửa mà chỉ có một bộ răng má, các răng này có thể mọc lại suốt cuộc đời lợn biển. Đuôi của chúng có hình mỏ neo, khá giống với cá voi.
Dạ dày của lợn biển cũng đơn giản hơn bò biển rất nhiều (bò biển có hệ thống tiêu hóa rất dài để tận hấp thụ các chất dinh dưỡng). Lợn biển có lối sống đơn lẻ hơn là sống theo cặp như bò biển, con đực sẽ đuổi theo con cái trong mùa sinh sản. Thời gian kiếm ăn của lợn biển là ban ngày.
Lợn biển cũng phải ngoi lên mặt nước để thở (cứ 20 phút lại ngoi lên). Khi gặp nguy hiểm thì lợn biển có thể di chuyển khá nhanh (30 km/h), tuổi thọ của lợn biển cũng lên đến 60 năm.
Mỗi ngày, lợn biển có thể ăn tới 50 kg thức ăn (thường là bèo, mao lương, cỏ, cần nước, tảo biển...), tương đương khoảng 10% - 15% khối lượng cơ thể chúng. Lợn biển có trí thông minh cao, tương tự cá heo và hải cẩu.
Lợn biển là loài động vật ăn cỏ, đặc biệt là cỏ biển.
Theo Báo Lao động, là động vật có vú nên cần môi trường ôn đới để tồn tại qua mùa đông. Mặc dù có cân nặng khổng lồ nhưng những con lợn biển đực không có một lớp lông tơ dày như cá voi để giữ ấm. Khi nhiệt độ dưới nước giảm xuống dưới 20 độ C, lợn biển sẽ tìm kiếm nhiệt độ cao hơn.
Trước đây, lợn biển thường tìm đến suối nước ấm, tuy nhiên, hiện nay đa số chúng lại tìm đến những nơi nước ấm ở nhà máy điện. Ngoài ra, lợn biển kiểm soát độ nổi bằng cách điều chỉnh lượng khí trong ruột – về cơ bản, chúng có thể "xì hơi" để chìm xuống hoặc giữ khí lại để nổi lên.
Mặc dù sống dưới nước nhưng 50 triệu năm trước, lợn biển lại có họ hàng vớ voi và thỏ đá - loài động vật sống trên cạn. Ba loài này có thể không giống nhau mấy. Nhưng dữ liệu gene chỉ ra chúng tiến hóa từ một tổ tiên chung. Họ hàng gần hơn của lợn biển là bò biển Steller, lớn hơn nhiều so với lợn biển. Bò biển Steller có thể dài đến 9m, bằng một con cá voi nhỏ.
Sau khi phát hiện vào thế kỷ 18, chưa đến 3 thập kỷ bò biển Steller đã bị săn đến mức tuyệt chủng.
Lợn biển có thể "xì hơi" để chìm xuống hoặc giữ khí lại để nổi lên.
Dù không phải đối mặt với mối đe dọa như họ hàng của chúng và cũng không có kẻ thù nào dưới đáy đại dương nhưng lợn biển vẫn dễ tổn thương do hoạt động của con người.
Lợn biển Tây Ấn Độ sống ở vùng nước mặn nhưng phải tìm nước ngọt để uống. Chúng buộc phải tới những nơi có tàu bè qua lại. Chân vịt và va chạm với tàu bè gây ra vết thương nghiêm trọng đối với chúng. Cả hai đều là mối đe dọa đối với sự sống còn của lợn biển.