Bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây ra. Bất cứ đối tượng nào cũng có thể bị bệnh bạch cầu nếu tiếp xúc với mầm bệnh. Vi khuẩn bạch hầu tiết ra các độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.
Vi khuẩn bạch hầu tiết ra các độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Ảnh minh họa
Người bệnh thường đào thải vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, thời kỳ lây bệnh có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3,4 tuần.
Bệnh bạch hầu có thể lây truyền trực tiếp từ người bệnh sang người lành qua đường hô hấp hoặc gián tiếp khi tiếp xúc với đồ chơi, vật dụng có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.
Trẻ từ 1 -10 tuổi chính là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh cao do kháng thể từ người mẹ truyền sang không còn, khả năng miễn dịch thấp sẽ dễ mắc bệnh hơn.
Vì vi khuẩn bạch hầu lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp nên tốc độ lây lan rất nhanh, có thể xâm nhập qua da tổn thương gây bạch hầu da. Sau khoảng 2 tuần nhiễm vi khuẩn, bệnh nhân đã có thể lây nhiễm cho người khác.
Bạch hầu là căn bệnh nguy hiểm. Trẻ thường có biểu hiện sốt nhẹ, mệt mỏi nổi hạch ở cổ sau thời gian ủ bệnh khoảng từ 2-5 ngày. Bệnh nhân có thể bị nhầm lẫn với các chứng đau họng khác ở giai đoạn sớm của bệnh khi chưa có giảm mạc ở mũi họng. Điều này dễ dẫn đến những biến chứng khó lường do độc tố của vi khuẩn gây ra.
Bệnh bạch hầu rất dễ lây lan và tốc độ lây lan khá nhanh thông qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc gián tiếp với đồ chơi, vật dụng có dịch chất dịch bài tiết của người mắc bệnh.
Ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu gây ra có thể dẫn đến các tổn thương nghiêm trọng cho thận, hệ thần kinh trung ương và tim nếu không được điều trị. Trong tổng số ca mắc bệnh bạch hầu, Tử vong vào khoảng 5 đến 10% có thể tăng cao đến 20% ở trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi.
Hầu hết các triệu chứng bệnh bạch hầu chủ yếu là gây viêm họng, đau họng, tổn thương thanh quản. Vi khuẩn bạch hầu sẽ tạo lớp giả mạc màu trắng ngà do các mô tế bào bị viêm tạo ra lớp màng giả mạc bám chặt vào trong vòm họng. Nếu không điều trị, mảng giả mạc này sẽ phát triển và lan rộng lấp đường hô hấp gây khó thở, ngạt thở, suy hô hấp cho người bệnh.
Hầu hết các triệu chứng bệnh bạch hầu chủ yếu là gây viêm họng, đau họng, tổn thương thanh quản. Ảnh minh họa
Viêm cơ tim là một trong những biến chứng đặc biệt nghiêm trọng của bệnh bạch hầu. Ngoại độc tố bạch hầu tiết ra làm ảnh hưởng đến tim, gây ra rối loạn nhịp tim và có thể tử vong đột ngột do trụy tim. Biến chứng viêm cơ tim thường xảy ra khi người bệnh ở giai đoạn toàn phát hoặc vài tuần sau khi khỏi bệnh. Trường hợp viêm cơ tim xuất hiện vào những ngày đầu của bệnh, người bệnh có tiên lượng xấu, tỷ lệ tử vong cao. Ngoài ra, viêm màng bao tim (gây đau nhói ở ngực), tràn dịch màng bao tim cũng xuất hiện đồng thời khi người bệnh gặp biến chứng viêm cơ tim.
Độc tố bạch hầu rất mạnh, chúng còn làm tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt. Biến chứng này có thể xảy ra khoảng vài tuần sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của bệnh bạch hầu.
Liệt màn khẩu cái thường xuất hiện vào tuần thứ 3 của bệnh, đây cũng là một trong những biến chứng khác có thể gặp khi mắc bạch hầu.
Một biến chứng bệnh bạch hầu khác có thể xảy ra với người mắc bạch hầu là vấn đề liên quan đến dây thần kinh kiểm soát bàng quang (rối loạn chức năng thần kinh bàng quang). Khi dây thần kinh ở vị trí này bị tổn thương, người bệnh sẽ không thể kiểm soát được hoạt động của bàng quang khiến đi tiểu thường xuyên, tiểu rắt,… Các vấn đề liên quan đến kiểm soát bàng quang thường phát triển trước khi cơ hoàng bị tê liệt, đây cũng có thể được xem là dấu hiệu cảnh báo sớm người bệnh có nguy cơ cao gặp các vấn đề nghiêm trọng về hệ hô hấp.
Cơ hoành được miêu tả là một cơ hình vòm dày ngăn cách phần ngực với bụng, có chức năng rất quan trọng trong hệ hô hấp giúp duy trì sự sống. Tuy nhiên, với những người mắc bạch hầu, cơ hoành bị tê liệt một cách đột ngột với thời gian kéo dài khiến người bệnh có nguy cơ tử vong cao.
Biến chứng tê liệt cơ hoành thường xuất hiện vài tuần sau khi có triệu chứng mắc bệnh bạch hầu, ngay cả khi người bệnh đã phục hồi sau nhiễm trùng ban đầu hoặc xuất hiện sau các biến chứng nhiễm trùng phổi, viêm cơ tim,…
Biến chứng này có thể xảy vào tuần thứ 5 của bệnh khiến liệt chi, cơ hoành và các dây thần kinh vận nhãn. Cơ hoành được biết đến với vai trò đặc biệt quan trọng đối với hệ hô hấp, do đó khi bộ phận này bị liệt, người bệnh sẽ gặp phải các biểu hiện khó thở, ngạt thở thường xuyên hơn, thậm chí có thể dẫn đến nhiễm trùng phổi (viêm phổi hoặc suy hô hấp).
Bệnh bạch hầu rất nguy hiểm, ngay cả khi được điều trị kịp thời, vẫn có khoảng 1/10 bệnh nhân tử vong về căn bệnh này.