ThS.BS Đoàn Dư Mạnh, thành viên hội Bệnh Mạch máu Việt Nam chia sẻ, vừa qua bác sĩ vừa tiếp nhận một bệnh nhân nữ 32 tuổi, ở Hà Nội đến khám trong tình trạng đau ngực, khó thở.
Theo chia sẻ của bệnh nhân, chị vừa sinh con lần đầu theo phương pháp sinh mổ, sau 3 ngày thấy đau ngực, khó thở, được chụp CT phát hiện huyết khối bán phần (chiếm 1 nửa lòng mạch) động mạch phổi trái. Trước đó từng đau tức chân trái và có dấu hiệu suy giãn tĩnh mạch chân
Khám kỹ hơn phát hiện huyết khối hình thành ở tĩnh mạch chi dưới. “Các bác sĩ chẩn đoán bệnh nhân có thể do tiền sử suy tĩnh mạch trước đó, sau mổ lấy thai bệnh nhân nằm 1 chỗ lâu gây ứ trệ hình thành huyết khối trôi về tim và lên động mạch phổi. Bệnh nhân được điều trị tiêm chống đông, sau 5 ngày ổn định chuyển uống chống đông”, BS Mạnh chia sẻ.
Phụ nữ mang thai và sau sinh có nguy cơ mắc huyết khối tĩnh mạch cao gấp 5 lần người khác
Theo nghiên cứu của Hội Bác sĩ Lồng ngực Hoa Kỳ (ACOG) và viện lâm sàng chuyên khoa Lồng ngực Hoa Kỳ (ACCP), với các trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) thầm lặng không có triệu chứng từ trước tỷ lệ biến chứng nhồi máu động mạch phổi (PE) khoảng 30%, trong khi cá trường hợp có triệu chứng tỷ lệ lên tới 40-50%.
Phụ nữ có khả năng mắc huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) trong thời kỳ mang thai cao gấp 5 lần so với đối tượng khác.
Sinh lý của cơ chế tăng đông để bảo vệ thai phụ khỏi xuất huyết trong 6 tuần sau sinh cũng lại là yếu tố làm tăng nguy cơ của huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) cũng như nhồi máu động mạch phổi (PE).
Ngoài ra, quá trình bệnh kéo dài liên quan đến hội chứng hậu huyết khối (PTS).
Phần lớn phụ nữ bị DVT trong thời kỳ mang thai sẽ phát triển các di chứng từ phù, thay đổi da đến huyết khối tái phát và loét. Ở những đối tượng có một số bệnh nền kèm theo như bệnh tăng đông di truyền hoặc mắc phải, tiền sử huyết khối, hội chứng kháng phospholipid, lupus, bệnh tim như suy tim, rung nhĩ và bệnh hồng cầu hình liềm… nguy cơ mắc DVT cũng tang cao.
Nếu có các bệnh kể trên cần có kế hoạch điều trị cũng như quản lý huyết khối dự phòng một cách chủ động.
Bên cạnh đó, các yếu tố nguy cơ khác như tuổi từ 35 trở lên chưa sinh con lần nào, mang thai nhiều lần, béo phì, tiểu đường và lối sống ít vận động là những yếu tố làm tăng nguy cơ gấp 1,5–2 lần. Trong thời kỳ hậu sản, nhiễm trùng, tiền sản giật làm tăng nguy cơ huyết khối gấp 4 lần và sinh mổ làm tăng nguy cơ gấp 2 lần.
ThS.BS Đoàn Dư Mạnh, thành viên hội Bệnh Mạch máu Việt Nam
BS Mạnh cho biết thêm, thường 80% phụ nữ sau sinh tĩnh mạch sẽ phục hồi nhưng số còn lại có thể không hồi phục hoặc có biến chứng huyết khối.
Chính vì thế, vị chuyên gia đưa lời khuyên, ngoài vấn đề kiểm tra thai nhi, các vấn đề trước sinh, các bà mẹ cũng nên có ý thức tầm soát suy giãn tĩnh mạch cả trước và sau sinh để có kế hoạch đề phòng nguy cơ của bệnh sau sinh, bên cạnh các bệnh phổ biến như tăng huyết áp thai kỳ hay tiểu đường thai kỳ.
Đặc biệt chú ý nếu sau sinh 6 tuần có dấu hiệu sưng phù đau nhiều chân, khó thở, đau ngực cần vào viện ngay để được phát hiện điều trị biến chứng huyết khối kịp thời.