Từ 1/7, nếu người dân không sử dụng sổ hộ khẩu vẫn có thể khai thác, sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để thực hiện các giao dịch liên quan đến thông tin về cư trú.
Từ 1/7 bỏ Sổ hộ khẩu, người dân chứng minh nơi thường trú bằng cách nào? - Ảnh minh họa |
Luật cư trú 2020 vừa được Quốc hội khóa XIV thông qua với nhiều nội dung mới quan trọng, trong đó đáng chú ý là việc bỏ Sổ hộ khẩu giấy trong việc quản lý cư trú.
Theo đó, khi người dân thực hiện thủ tục đăng ký thường trú, cơ quan đăng ký thường trú kiểm tra và cấp phiếu tiếp nhận hồ sơ cho người đăng ký. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ đầy đủ, cơ quan đăng ký thường trú có trách nhiệm thẩm định, cập nhật thông tin về nơi thường trú mới của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú thay vì cấp Sổ hộ khẩu cho họ như quy định trước đây tại Điều 18 Luật Cư trú 2006.
Kể từ ngày 1/7/2021, Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31/12/2022.
Trường hợp thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú khác với thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú thì sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật này và không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú.
Chứng minh nơi thường trú bằng cách nào?
Nhiều ý kiến thắc mắc khi bỏ Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì căn cứ vào đâu để chứng minh rằng công dân đã đăng ký thường trú, tạm trú tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mỗi khi khai thông tin trong các giao dịch hành chính?
Theo bộ Công an, bỏ Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú khi công dân làm các thủ tục hành chính có liên quan sẽ được khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thông qua mã số định danh cá nhân.
Công dân được sử dụng số định danh để xác định thông tin nhân thân, thông tin về nơi cư trú. Khi tham gia các giao dịch thì công dân có thể xuất trình Căn cước công dân (có thông tin về số định danh cá nhân) để cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm kiểm tra, đối chiếu thông tin về nơi cư trú của công dân đã cung cấp với thông tin có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, không bắt buộc công dân phải xuất trình giấy tờ xác nhận về cư trú.
Bên cạnh đó, khi triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bộ Công an sẽ nghiên cứu để có nhiều hình thức khai thác, sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu bảo đảm tính thông suốt, liên tục và dễ tiếp cận, dễ dử dụng, tạo thuận lợi tối đa cho công dân.
Cự Giải (T/h)