(ĐSPL) - Theo giới phân tích, việc Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan khổng lồ HD-981 vào vùng biển Việt Nam là nhằm củng cố tham vọng lãnh thổ ở Biển Đông.
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu khổng lồ HD-981 vào vùng biển có tranh chấp với Việt Nam là nhằm củng cố về mặt pháp lý đòi hỏi chủ quyền, duy trì tranh chấp, bất chấp cái giá phải trả về chính trị, ngoại giao.
|
Trung Quốc dùng giàn khoan xâm chiếm Biển Đông, bất chấp cái giá phải trả về chính trị, ngoại giao. |
Các nhà phân tích cho rằng trong việc di chuyển giàn khoan khổng lồ HD-981, vấn đề tìm kiếm khai thác nguồn năng lượng chỉ là thứ yếu đối với Bắc Kinh. Qua động thái này, Trung Quốc muốn tìm cách chứng minh là có xảy ra cái gọi là “sự cố về tranh chấp chủ quyền” và đây là một phần trong chiến lược rộng lớn, nhằm chứng tỏ là Bắc Kinh vẫn kiểm soát các lãnh thổ đang có tranh chấp.
Hãng tin Pháp AFP dẫn lời ông Barry Sautman - chuyên gia về chính trị Trung Quốc của Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong – nhận định: “Tôi nghĩ rằng chính phủ Trung Quốc tìm cách tỏ ra quyết đoán về các đòi hỏi chủ quyền đối với một hòn đảo này hoặc hòn đảo kia ở Biển Đông hoặc biển Hoa Đông, nhằm duy trì sự tồn tại của các tranh chấp”, bởi vì “theo luật pháp quốc tế, tất cả các nước có tranh chấp về lãnh thổ phải làm một việc gì đó một cách đều đặn, để cho thấy là họ vẫn rất quan tâm đến vùng lãnh thổ này”. Ông Sautman nói thêm: “Hành động này có lợi cho Trung Quốc về mặt chính trị hay không, thì đó lại là một chuyện khác”.
Trong vụ giàn khoan HD-981, Trung Quốc tuyên bố đã hành động “hoàn toàn hợp lý, hợp pháp và chính đáng” vì nơi mà Bắc Kinh dự tính đặt giàn khoan gần quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, Việt Nam khẳng định quần đảo Hoàng Sa là của Việt Nam và đã bị Trung Quốc đánh chiếm năm 1974.
Ngày 7/5, Việt Nam đã họp báo quốc tế tố cáo tàu Trung Quốc đi hộ tống giàn khoan, đã dùng vòi rồng phun nước tấn công và dùng tàu đâm thẳng vào tàu của Việt Nam. Trung Quốc chối bỏ điều này và đổ lỗi cho phía Việt Nam. Đây chỉ là một trong vô số vụ va chạm trên biển giữa Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á.
Trước đó, ở Biển Hoa Đông, tàu Trung Quốc và Nhật Bản cũng đã nhiều lần đối mặt với nhau trong vùng quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, nơi có tranh chấp chủ quyền giữa Tokyo và Bắc Kinh. Trong vụ này, lập luận của Nhật Bản là cho đến tận những năm 1970, Trung Quốc không hề quan tâm đến các hòn đảo nói trên. Do vậy, dường như Bắc Kinh rút kinh nghiệm, tránh phải đối mặt với những lập luận tương tự.
Theo giáo sư Lý Minh Giang - chuyên gia về an ninh Đông Á thuộc Học viện nghiên cứu quốc tế ở Singapore, động thái cứng rắn của Trung Quốc chống Việt Nam có thể là do lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là Tập Cận Bình, thiên về “cách tiếp cận mạnh tay” hơn so với các thế hệ lãnh đạo trước.
Nhưng, phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam cho thấy thái độ các nước trong khu vực đối với Trung Quốc đã cứng rắn hơn và đây là điều mà dường như Bắc Kinh không lường trước.
Giáo sư Lý Minh Giang nói: “Hầu như chắc chắn là Trung Quốc không tính đến việc Việt Nam có thể đưa tất cả tàu bè của mình ra nhằm buộc Trung Quốc phải rút giàn khoan đi”. Theo ông, “Việt Nam không thể không lo ngại về hậu quả của việc không phản ứng mạnh mẽ” trước hành động xâm lấn của Trung Quốc.